Wednesday, October 24, 2018

Minh Thái Tổ – Wikipedia tiếng Việt


Minh Thái Tổ Hồng Vũ hoàng đế Chu Nguyên Chương

Minh Thái Tổ (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10, 1328 – 24 tháng 6, 1398), tên thật là Chu Nguyên Chương (朱元璋), còn gọi là Hồng Vũ Đế (洪武帝), Hồng Vũ Quân (洪武君), hay Chu Hồng Vũ (朱洪武), thuở nhỏ tên là Trùng Bát (重八), về sau đổi tên thành Hưng Tông (興宗), tên chữ là Quốc Thụy (國瑞). Ông là vị hoàng đế khai quốc của vương triều Nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ năm 1368 đến 1398. Các sử gia gọi thời kỳ cai trị của ông là Hồng Vũ chi trị (洪武之治). Ông được xem như là một trong các hoàng đế vĩ đại nhất của Trung Quốc nhờ các công trạng to lớn của mình với đất nước.

Vào giữa thế kỷ XIV, cùng với nạn đói, bệnh dịch và các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra khắp nơi, Chu Nguyên Chương trở thành nhà lãnh đạo của một lực lượng đã chinh phục Trung Hoa và chấm dứt Nhà Nguyên, buộc người Mông Cổ phải rút vào thảo nguyên Trung Á. Với việc chiếm được Đại Đô của Nhà Nguyên, ông tuyên bố thiên mệnh thuộc về mình và lập ra Nhà Minh vào năm 1368. Chỉ tin vào gia đình, ông phân phong đất đai cho các con trai thành các phiên quốc trấn thủ các vùng đầm lầy phía bắc và thung lũng sông Dương Tử. Người con cả của ông, thái tử Chu Tiêu chết sớm, việc này đã khiến ông chọn người cháu nội là Chu Doãn Văn làm người kế vị cùng với việc ban bố Hoàng Minh Tổ Huấn. Nhưng những việc này đều thất bại, khi Chu Doãn Văn quyết định ra tay với các ông chú đã dẫn đến cuộc nổi loạn thành công của Yên Vương Chu Đệ.

Chu Nguyên Chương đặt niên hiệu là Hồng Vũ (洪武). Khi qua đời, ông được truy tôn miếu hiệu là Thái Tổ (太祖) và thụy hiệu là Cao Hoàng đế (高皇帝). Tiểu sử của ông được ghi tại Minh sử, quyển 1-3, Thái Tổ bản kỷ. Ông được táng ở Hiếu lăng, Nam Kinh.





Nguyên quán của Chu Nguyên Chương ở Tứ Châu (nay là huyện Hu Dị, tỉnh Giang Tô), sau dời về huyện Chung Ly, Hào Châu tức Phụng Dương. Cả gia đình ông trôi nổi nhiều nơi do sinh kế thúc bách. Cha mẹ ông có tám người con, nhưng hai người đã chết yểu, còn lại sáu người, bốn trai hai gái. Chu Nguyên Chương là con út, thuở nhỏ gọi là Trùng Bát, ngay cả tên họ chính thức cũng không có, mãi đến sau khi gia nhập nghĩa quân Quách Tử Hưng, mới lấy tên là Chu Nguyên Chương, tên chữ là Quốc Thụy.

Ông xuất thân từ tầng lớp tá điền nghèo khổ, từng giữ dê chăn bò cho địa chủ[1]. Đời Nguyên năm Chí Chính thứ 4 (1344), vùng đất Hoài Bắc phát sinh hạn hán và châu chấu tàn hại cùng với dịch bệnh nên cha mẹ, các anh đều nối tiếp nhau chết cả. Chu Nguyên Chương không biết lấy gì để sống, tới chùa Hoàng Giác làm thầy tu, từng khất thực ba năm tới phía tây của tỉnh An Huy, phía đông tỉnh Hà Nam, trải qua gian khổ tôi luyện[2].

Chu Nguyên Chương là người có tính quật cường, từ nhỏ chí khí đã chẳng tầm thường. Do sức ép của cuộc sống nên ông phải xuất gia đi tu, nhưng không muốn làm nhà sư nhỏ bé, vào chùa mới được 15 ngày thì đã làm nhà sư chu du khắp chốn. Trong lúc bôn ba bốn phương, ông đã bí mật tiếp xúc với Bạch Liên giáo đương thời[3], hiểu được tình thế trong thiên hạ, lòng người muốn đổi thay, khí vận triều Nguyên sắp hết. Năm Chí Chính thứ 12 (1352), Chu Nguyên Chương tham gia Hồng Cân quân (quân khăn đỏ) của Quách Tử Hưng, được Tử Hưng tin cậy, nhậm chức Tả phó Nguyên soái nghĩa quân. Năm Chí Chính thứ 16 (1356), Chu Nguyên Chương đánh chiếm Tập Khánh (Nam Kinh ngày nay), được Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi tiến phong làm Ngô Quốc công. Ông lấy Ứng Thiên (Nam Kinh) làm trung tâm, phát triển rất nhanh. Từ năm 1363 đến 1367, lần lượt tiêu diệt tập đoàn Trần Hữu Lượng ở trung lưu Trường Giang và Trương Sĩ Thành ở hạ lưu Trường Giang, bao gồm cả hai bờ nam bắc.

Cuối 1367, ông xuất quân Bắc phạt. Chu Nguyên Chương phong Từ Đạt làm đại tướng quân, Thường Ngộ Xuân làm phó tướng dẫn 25 vạn đại quân bắc phạt, đã nhanh chóng chiếm được Sơn Đông. Tháng giêng năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng đế, đặt quốc hiệu là Minh, trở thành vua Minh Thái Tổ. Cùng năm đó, công phá Đại đô (Bắc Kinh), lật đổ ách thống trị của Nhà Nguyên, từng bước thực hiện thống nhất đất nước. Năm Hồng Vũ thứ 31 (1398), Minh Thái Tổ bệnh mất, hưởng thọ 70 tuổi, ở ngôi 31 năm, chôn tại Hiếu lăng ở phía nam chân núi Chung Sơn thành phố Nam Kinh.



Gia nhập nghĩa quân[sửa | sửa mã nguồn]


Chùa Hoằng Giác nơi Chu Nguyên Chương trú thân chẳng mấy chốc bị phá hủy bởi chiến tranh. Năm 1351, cuộc khởi nghĩa Hồng Cân bùng nổ, Quách Tử Hưng và một số người ở Hào Châu cũng tới tấp nổi lên hưởng ứng. Chu Nguyên Chương được tin và đang chăm chú theo dõi sự phát triển của thời cuộc. Một hôm, Chu Nguyên Chương cho là thời cơ đã đến, liền rời khỏi chùa Hoàng Giác sang Hào Châu theo Quách Tử Hưng. Do mưu trí và dũng cảm, Chu Nguyên Chương dần dần được thăng chức và trở thành người tâm phúc của Quách Tử Hưng. Sau đó, Quách Tử Hưng còn gả người con gái nuôi là Mã Thị cho Chu Nguyên Chương, nên uy tín của Chu Nguyên Chương trong nghĩa quân ngày càng cao.

Bấy giờ, cùng khởi binh với Quách Tử Hưng có 4 người khác, họ đều tự xưng là nguyên soái, nhưng giữa bốn người này lại không ai chịu phục ai, nên mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Một hôm, 4 người đã liên hợp lại bắt giữ Quách Tử Hưng, còn Chu Nguyên Chương cũng suýt bị toi mạng, sự việc này về sau cũng được sắp xếp ổn thỏa. Nhưng Chu Nguyên Chương qua đó đã nhận rõ được sự thiển cận của những người này, biết họ cũng sẽ chẳng làm được việc gì lớn. Ít lâu sau, Chu Nguyên Chương thừa lệnh về quê chiêu mộ binh mã, các bạn bè như Từ Đạt, Chu Đức, .... cũng đến theo, chỉ trong mấy ngày đã tụ tập được hơn 700 người. Chu Nguyên Chương có lực lượng riêng của mình thì không muốn ở lại thành Hào Châu, nên sau khi được sự đồng ý của Quách Tử Hưng, đã dẫn dắt đội ngũ của mình đánh nam dẹp bắc, số người đi theo mỗi ngày một đông.

Khi đoàn quân đi qua Định Viễn, có một văn nhân địa phương tên là Lý Thiện Trường đến xin gặp và được Chu Nguyên Chương phong là mưu sĩ. Một hôm, Chu Nguyên Chương hỏi Lý Thiện Trường rằng: "Nay thiên hạ đang đại loạn, các nơi đều đang chém giết lẫn nhau, thì đến bao giờ mới được thái bình?". Lý Thiện Trường đáp: "Cuối thời triều nhà Tần cũng từng xảy ra đại loạn như hiện nay, Hán Cao Tổ xuất thân bình dân, vì ông ta sáng suốt, lại biết dùng người và không giết hại kẻ vô tội, nên chỉ trong 5 năm đã thống nhất được thiên hạ. Nay triều đình Nhà Nguyên đang hỗn loạn, thiên hạ đang bị tan rã, sao ông không học Hán Cao Tổ?".

Năm 1355, Quách Tử Hưng bị bệnh qua đời, con trai là Quách Thiên Tự kế nhiệm chức nguyên soái, Chu Nguyên Chương được phong làm phó soái. Ít lâu sau, Quách Thiên Tự tử trận, Chu Nguyên Chương được thay làm nguyên soái, tiếp quản cựu bộ của Quách Thiên Tự, thực lực càng trở nên lớn mạnh.


Đánh bại các đối thủ[sửa | sửa mã nguồn]


Năm 1356, Chu Nguyên Chương đánh hạ được Kim Lăng (Nam Kinh) rồi đổi g̣ọi Ứng Thiên Phủ, nơi đây trở thành căn cứ địa của ông và là kinh đô Nhà Minh trong suốt thời gian ông trị vì. Chính quyền của ông bắt đầu nổi tiếng và nạn dân khắp nơi bắt đầu đổ về đây, trong 10 năm tiếp theo dân số Nam Kinh tăng gấp 10 lần. Trong khoảng thời gian này, quân Hồng Cân bị chia năm xẻ bảy, Chu Nguyên Chương đứng đầu một nhánh nhỏ (gọi là Minh), còn Trần Hữu Lượng đứng đầu nhánh lớn, kiểm soát vùng trung tâm thung lũng sông Dương Tử.

Lúc bấy giờ Chu Nguyên Chương có hai kình địch, một là Trần Hữu Lượng đang chiếm cứ vùng Hồ Quảng, nắm giữ vùng đất thượng du sông Trường Giang. Một người khác là Trương Sĩ Thành, đang xưng bá tại Tô Hàng, chiếm một vùng đất phì nhiêu giàu có. Vị trí chiếm đóng của hai người này trở thành thế gọng kềm, có thể đánh kẹp Chu Nguyên Chương vào giữa, tạo thế uy hiếp rất lớn.


Bình định Trần Hữu Lượng[sửa | sửa mã nguồn]


Năm 1360, Trần Hữu Lượng đoạt được thành Thái Bình của Chu Nguyên Chương, giết chết người con nuôi của Chu Nguyên Chương là Chu Văn Tốn và viên tướng thủ thành là Hoa Vân, rồi cử hành nghi lễ xưng đế tại ngôi miếu Ngũ Thông tại Thái Thạch, đặt quốc hiệu là Hán, đổi niên hiệu là Đại Nghĩa, rồi đắc ý kéo quân chiến thắng trở về Giang Châu. Sau đó, Trần Hữu Lượng còn hẹn với Trương Sĩ Thành cùng đánh chiếm Ứng Thiên, nhưng Trương Sĩ Thành chưa chịu. Thế là Trần Hữu Lượng tự mình xua đoàn chiến thuyền, từ Giang Châu xuôi theo dòng Trường Giang tiến xuống phía Đông, nhắm mục tiêu là Ứng Thiên. Đoàn quân của Trần Hữu Lượng tiến xuống ồ ạt, khí thế hùng tráng.

Khi tin tức này truyền đến Ứng Thiên, thì cả thành Ứng Thiên đều chấn động. Chu Nguyên Chương vội vàng triệu tập quần thần để thương thảo đối sách. Có người bảo Trần Hữu Lượng dũng cảm thiện chiến, nhuệ khí đang cao, lại chiếm giữ được vùng Giang, Sở, khống chế cả thượng du sông Trường Giang, địa thế hiểm trở, binh tướng mạnh mẽ, thế lực to lớn, vậy nếu tranh phong với ông ta, thì chỉ là đem trứng chọi đá, tự tìm lấy sự diệt vong. Vậy chi bằng hãy hiến thành Ứng Thiên cho ông ta, rồi quy phục dưới cờ cửa ông ta là tốt nhất. Có người lại cho rằng Trần Hữu Lượng mới vừa chiếm được thành Thái Bình, khí thế đang lên, vậy chi bằng trước tiên hãy lùi về Kiến Khang, Chung Sơn, là nơi có vương khí, có thể chiếm giữ ở đấy để chờ khi nhuệ khí của Trần Hữu Lượng xuống, thì ta mới xua quân quyết chiến với hắn. Có người bảo Trần Hữu Lượng chẳng qua là một gã đánh cá ở Miện Dương, chỉ là một tên tiểu lại, vậy nên cùng hắn quyết chiến một trận sống chết tại Kiến Khang. Vạn nhất nếu không thắng được, thì rút lui cũng chưa phải muộn. Chu Nguyên Chương cho rằng những chủ trương đó chưa phải là thượng sách, nhưng bản thân mình thì không thể giải thích tại sao. Ông ngó quanh mọi người có mặt trong phiên họp, thấy Lưu Bá Ôn đôi mắt sáng ngời, im lặng không nói. Chu Nguyên Chương đoán biết vị quân sư của mình đang có diệu kế trong lòng. Ông bèn mời Lưu Bá Ôn vào trong một phòng riêng, dò hỏi mưu kế.

Sau đó, Chu Nguyên Chương sai Hồ Đại Hải kéo quân đánh Tính Châu để khống chế con đường rút lui của Trần Hữu Lượng. Chu Nguyên Chương lại sai các tướng Thường Ngộ Xuân, Phùng Quốc Thắng, Hoa Cao, Từ Đạt, dẫn quân đi đặt những ổ mai phục, chuẩn bị xuất kích khi thời cơ đến. Sau khi sự bố trí đâu vào đấy Chu Nguyên Chương bèn mời người bạn thân của Trần Hữu Lượng là Khang Mâu Tài, viết một bức thư mật, giả vờ hẹn với Trần Hữu Lượng để làm nội ứng, bảo ông ta phải nhanh chóng kéo quân tới tấn công thành Ứng Thiên.

Do nôn nóng muốn thủ thắng, để chiếm lĩnh vùng đất Kiến Khang, là một vùng đất quý về mặt phong thủy, nên Trần Hữu Lượng đã xuống lệnh tức khắc khởi binh để tấn công. Riêng về Chu Nguyên Chương thì tích cực chuẩn bị: trước hết đặt một ổ mai phục bên cạnh Thạch Khôi Sơn với quân số đông ba vạn người, rồi lại xuống lệnh phá hủy chiếc cầu gỗ tại Giang Đông, đưa đá và sắt tới để tạo chướng ngại trên dòng sông, chờ chiến thuyền của Trần Hữu Lượng sa vào bẫy.

Quả nhiên, khi đoàn chiến thuyền của Trần Hữu Lượng đi vào một con sông hẹp, và khi đến cầu Giang Đông thì không thấy chiếc cầu gỗ nữa, mà dưới dòng sông toàn là đá tảng to. Trần Hữu Lương cả kinh, vội vàng dùng mật khẩu để liên lạc, nhưng không có ai trả lời. Đến chừng đó, hắn mới biết mình đã bị trúng kế, nhưng muốn thối lui cũng không còn kịp nữa.

Quân đội cửa Chu Nguyên Chương khi thấy chiến thuyền của Trần Hữu Lượng đã đến cầu Giang Đông liền phất cờ vàng, phục binh từ khắp bốn phía nhảy ra, đánh kẹp Trần Hữu Lượng từ trên bộ lẫn dưới sông. Không mấy chốc, toàn quân cửa Trần Hữu Lượng bị đánh tan tác. Bản thân của Trần Hữu Lượng phải nhảy xuống thuyền con bỏ trốn. Chu Nguyên Chương chỉ huy đại quân thừa thắng truy kích, lấy lại thành Thái Bình, rồi tiến quân bảo vệ được cả Kiến Khang.

Năm 1363, Chu Nguyên Chương quyết định thân chinh để giải cứu An Phong (nay nằm về phía Nam Thọ Huyện, tỉnh An Huy) để giải vây cho bộ tướng cửa mình là Lữ Trân, đang bị Trương Sĩ Thành bao vây. Khi Chu Nguyên Chương cử binh đến cứu viện cho An Phong, thì Trần Hữu Lượng bèn thừa cơ xua quân tấn công. Hắn điều động mấy trăm chiến thuyền, năm sáu mươi vạn quân đội, dốc hết sức mạnh để bao vây Hồng Đô (nay là thành phố Nam Xương, tỉnh Giang Tây), và đã nhanh chóng chiếm Cát An, Lâm Giang, và Vô Vi Châu. Nam Xương bị vây hơn tám mươi ngày, kịch chiến liên tục đêm ngày mấy mươi hôm, tình trạng hết sức nguy cấp.

Chu Nguyên Chương bèn đích thân dẫn hai chục vạn đại binh đi cứu viện, ra lệnh cho Lưu Bá Ôn ở lại giữ Ứng Thiên. Trần Hữu Lượng nghe nói Chu Nguyên Chương dẫn binh tới cứu viện nên vội vàng tháo vòng vây và bố trí trận địa tại hồ Bà Dương, chuẩn bị nghênh chiến. Quân cứu viện của Chu Nguyên Chương tới nơi, liền bắt đầu kịch chiến với quân địch trên hồ Thẩm Dương. Giai đoạn đầu của trận đánh, Chu Nguyên Chương nhiều lần gặp cảnh thất lợi, suýt nữa lâm nguy. Bí quá, Chu Nguyên Chương bèn ra lệnh cho Từ Đạt về Ứng Thiên thay thế Lưu Bá Ôn. Lưu Bá Ôn đi bất kể ngày đêm. Sau khi đến nơi, bèn cùng Chu Nguyên Chương bàn bạc chiến thuật để phá địch. Hai người đều chủ trương dùng hỏa công. Nhưng Chu Nguyên Chương vẫn lo hướng gió không ổn định, thuyền nhiều khó đốt cháy hết, nếu không khéo lửa còn có thể cháy đến thuyền mình như chơi. Căn cứ theo sự quan sát hiện tượng thiên văn của Lưu Bá Ôn, ông đoán đến hoàng hôn thì sẽ có gió Đông bắc thổi. Họ liền chuẩn bị ngay bảy chiếc thuyền nhỏ, bên trên chất nhiều hình nộm bằng rơm để nghi binh, lại đổ nhiều dầu lên cỏ sậy khô, còn chứa trong thuyền rất nhiều thuốc súng và lưu huỳnh, nhanh chóng cho thuyền tiến ra giữa hồ. Khi tới gần chiến thuyền của địch, binh sĩ bèn quăng móc để móc dính thuyền địch và thuyền hỏa công, rồi nổi lửa đốt.

Chỉ trong khoảnh khắc, lửa cháy ngất trời. Những thuyền to đều bị cháy. Cuộc chiến đấu giữa đôi bên diễn ra vô cùng ác liệt, một ngày phải tiếp lửa đến mấy chục lần. Tiếng hò reo sát phạt, tiếng sóng gió, tiếng lửa cháy hòa lẫn lại làm một, nghe thật rùng rợn. Trong khi kịch chiến, tướng sĩ hai bên thương vong rất nhiều. Trần Hữu Lượng không tiên liệu được điều đó nên sự tổn thất càng to hơn.

Cuộc hỗn chiến tại hồ Bà Dương kéo dài ba hôm vẫn chưa phân thắng bại. Về sau, Lưu Bá Ôn kiến nghị với Chu Nguyên Chương nên đưa quân chủ lực ra cửa hồ, chận con đường lưu thông của địch quân, rồi dùng biện pháp “đóng cửa đánh chó”, để cắt đứt đường vận chuyển lương thực của địch. Do lương thực thiếu thốn, binh sĩ mệt mỏi, nội bộ của Trần Hữu Lượng bắt đầu nghi kỵ lẫn nhau, nên quân của Trần Hữu Lượng đã nhanh chóng bị đánh bại. Một số lớn bị bắt và đầu hàng. Trần Hữu Lượng khi chường mặt để quan sát tình hình, bỗng một mũi tên lạc bắn trúng, chết ngay tại chỗ. Quân đội cửa Chu Nguyên Chương đã trả một giá rất cao về mặt thương vong, và trải qua mấy lần nguy hiểm, rốt cục đã đánh bại triệt để cánh quân của Trần Hữu Lượng.

Trận đánh được xem như một trong hai trận thủy chiến lớn nhất lịch sử Trung Quốc, trận đánh còn lại là trận Xích Bích, cả hai trận đánh đều có điểm tương đồng là lực lượng phía nam yếu thế hơn đã thắng lực lượng phía bắc mạnh hơn và cả hai trận đánh đều có tính chất quyết định lịch sử Trung Quốc lúc đó. Chu Nguyên Chương khải hoàn về Nam Kinh, từ đó không trực tiếp thân chinh nữa mà chỉ đạo các tướng lĩnh từ kinh đô.


Bình định Trương Sĩ Thành[sửa | sửa mã nguồn]


Khi cuộc chiến bình định quân Hán của Trần Hữu Lượng ở phía Tây đã dần dần kết thúc, thì Chu Nguyên Chương tập trung binh lực, quay mũi giáo chĩa về hướng Đông, tấn công vào Ngô Quốc do Trương Sĩ Thành dựng lên. Khi Trương Sĩ Thành chiếm cứ được vùng Triết Tây, phía Bắc liên kết được với Lưỡng Hoài, dựa vào sức mạnh vũ lực của mình, đã mấy phen xâm chiếm những vùng đất thuộc thế lực của Chu Nguyên Chương.

Vào năm 1363, Trương Sĩ Thành bao vây thành Kiến Đức. Vị nguyên soái giữ thành là Lý Văn Trung nghe tin cả giận, muốn đánh một trận chết sống với hắn. Nhưng lúc đó có mặt Lưu Bá Ôn tại thành Kiến Đức. Ông bèn giải thích tường tận cho Lý Văn Trung nghe: "Chỉ ba hôm sau Trương Sĩ Thành nhất định sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp tế lương thảo, và buộc phải triệt thoái. Khi hắn rút lui thì ta đuổi theo, chắc chắn chỉ cần đánh một trận là bắt sống được hắn". Lý Văn Trung bèn xuống lệnh truy kích. Tức thì, những con ngựa chiến đua nhau chạy như bay, mãi đến Đông Dương mới đuổi kịp bộ đội của Trương Sĩ Thành. Sau một trận kịch chiến, quân đội của Trương Sĩ Thành vốn đang đói lại đang mệt mỏi, nên không sao chống đỡ nổi. Chẳng mấy chốc, toàn bộ thảm bại và bị Lý Văn Trung bắt sống vô số.

Năm 1367, Chu Nguyên Chương đánh bại Trương Sĩ Thành, kẻ vốn chiếm giữ kinh đô nhà Tống ở Hàng Châu. Chiến thắng này giúp chính quyền Chu Minh giành quyền kiểm soát toàn bộ các vùng đất bắc và nam sông Dương Tử. Việc này khiến các thủ lĩnh nghĩa quân nhỏ nhanh chóng đầu hàng. Tháng 1 năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng đế, lập ra Nhà Minh, lấy niên hiệu là Hồng Vũ, định đô ở Nam Kinh. Nhiệm vụ của triều đại của ông là đánh đuổi người Mông Cổ, khôi phục giang sơn của người Hán.


Đánh đuổi người Mông Cổ[sửa | sửa mã nguồn]


Năm 1368, Chu Nguyên Chương hạ lệnh cho Từ Đạt xuất quân bắc phạt đánh đuổi người Mông Cổ. Người Mông Cổ nhanh chóng bị đánh bại và buộc phải bỏ Đại Đô cùng toàn bộ phía bắc Trung Hoa và rút lui vào thảo nguyên vào tháng 9. Năm 1381, quân Minh dưới sự chỉ huy của Mộc Anh đánh chiếm vùng đất cuối cùng của Nhà Nguyên là Vân Nam và Trung Hoa hoàn toàn được thống nhất dưới triều đại Nhà Minh.


Kế sách[sửa | sửa mã nguồn]


Đối với chính thể chuyên chế của phong kiến Trung Hoa, quân đội là trụ cột của triều đình. Cho nên hầu hết các vua khai quốc đều lập được nhiều chiến công hiển hách. Cũng có thể nói, chiến tranh đã tôi luyện nên trí dũng và tầm nhận thức của một vĩ nhân. Chu Nguyên Chương vạch ra chiến lược Bắc phạt, đã nói rõ ông là người thông minh tài trí hơn người. Đại tướng quân Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân kiến nghị dùng đại quân đánh thẳng vào kinh đô triều Nguyên ngay từ đầu, Chu Nguyên Chương đã nhận thấy không thích hợp. Ông đã chỉ ra:




Đạo quân đơn độc đánh sâu vào lòng địch thực tế là một điều cấm kỵ của nhà quân sự. Xem xét kỹ tình thế, ông đã vạch ra chiến lược cẩn thận mà tất thắng:




Việc phân tích và bố trí chiến lược kiệt xuất này, hoàn toàn căn cứ theo dự liệu mà phát triển, việc Bắc phạt vì vậy đã thành công.


Nguyên nhân thắng lợi[sửa | sửa mã nguồn]


Bất cứ sự thành công nào của một vĩ nhân, không phải chỉ ngồi đợi ơn ban, mà là nắm lấy vận mệnh của mình. Chu Nguyên Chương đã không có quyền thế, lại không có trình độ văn hóa, ông ta mượn quân đội của Quách Tử Hưng để thâu tóm thiên hạ, sự thành công của ông khái quát lên trong ba điểm chủ yếu:


Hoãn xưng đế[sửa | sửa mã nguồn]


Nghĩa quân các lộ phá thành chiếm đất, chưa lập được căn cứ ổn định đã vội xưng vương. Chu Nguyên Chương đã sử dụng lời khuyên của nho sĩ Lý Thiện Trường:




Năm 1359, ông đã sớm trở thành một trang hào kiệt ngất ngưởng binh hùng tướng mạnh, nhưng ông vẫn không xưng vương mà nhận sự thụ phong của Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi chính quyền Nhà Tống, làm Tả thừa tướng hành tỉnh Giang Tây, năm 1361 được tấn phong tước Ngô Quốc công. Năm 1363, ông rước Tiểu Minh vương về an trí ở Trừ Châu, mượn tay thiên tử ban lệnh cho chư hầu, nhưng vẫn không xưng vương. Năm 1364, Chu Nguyên Chương tiêu diệt tập đoàn quân sự lớn nhất ở lưu vực Trường Giang của Trần Hữu Lượng, lúc này mới xưng là Ngô vương, nhưng vẫn tôn trọng Tiểu Minh vương Nhà Tống.


Đợi thời cơ tránh mũi nhọn quân Nguyên[sửa | sửa mã nguồn]


Trước kia, khi thực lực của Chu Nguyên Chương chưa lớn mạnh, ông luôn tránh chạm trán với quân chủ lực Nhà Nguyên. Ông đã từng đánh bại quân Nguyên ở huyện Lục Hợp (tỉnh An Huy), nhưng đương thời lực lượng của ông rất yếu, không thể đánh nhau với quân chủ lực Nhà Nguyên, thế là nộp lại chiến lợi phẩm thu được, hướng dẫn quân Nguyên đi tấn công quân Trương Sĩ Thành, ông luôn giữ mối giao hảo với Nhà Nguyên, uyển chuyển tránh né các cánh quân hùng mạnh, sách lược này được vận dụng rất thành công.


Nắm chắc thời cơ để thôn tính dần Giang Nam[sửa | sửa mã nguồn]


Chu Nguyên Chương lợi dụng các cánh quân lớn phản Nguyên ở các lộ làm yểm trợ, không để mất thời cơ phát triển ở vùng trung lưu Trường Giang. Ông mượn vây cánh của Đại Tống, cam chịu phận dưới của Tiểu Minh vương, không xuất đầu lộ diện, mà âm thầm tích lũy phát triển lương thực, mở rộng địa bàn. Ông chọn Tập Khánh làm trung tâm, phía Bắc có Lưu Phúc Thông chống trả quân Nguyên, phía Đông lại có Từ Thọ Huy che chắn. Chu Nguyên Chương lợi dụng thời cơ này để phát triển vùng Giang Nam trước, đánh chiếm những vùng bỏ trống. Trong lúc quân Nguyên đang bận truy quét quân Lưu Phúc Thông và Từ Thọ Huy thì Chu Nguyên Chương cũng đã thống nhất được Giang Nam.


Thiết lập sự cường thịnh của triều Minh[sửa | sửa mã nguồn]


Khi Nhà Minh mới thành lập, do hậu quả của chính sách cai trị của triều Nguyên và gần 20 năm chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc bị phá hoại nghiêm trọng, đời sống nhân dân rất khốn khổ.

Trước tình hình ấy, mặc dầu từ lâu không còn là đại biểu của giai cấp nông dân nữa, nhưng Chu Nguyên Chương vẫn thông cảm được các nổi khổ của nhân dân đồng thời cũng hiểu rõ sức mạnh của quần chúng. Vì vậy ông nói:




Quán triệt tư tưởng đó, Minh Thái Tổ đã thi hành những chính sách sau đây[4]:


  • Trả tự do cho những người bị biến thành nô tì trong thời gian loạn lạc, đồng thời cấm cưỡng bức hoặc mua bán dân tự do làm nô tì.

  • Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp như kêu gọi nhân dân khai khẩn đất hoang, cho họ có quyền sở hữu vĩnh viễn và không đánh thuế; kêu gọi dân lưu tán trở về quê quán, cấp cho họ ruộng hoang đồng thời cấp bò cày, nông cụ, thóc giống, lương thực để gíup họ vượt qua những khó khăn ban đầu. Triều đình còn chú ý đến vấn đề thủy lợi, giảm nhẹ thuế khóa, cứu tế cho dân những nơi bị mất mùa.

  • Bỏ những hình phạt tàn khốc thời Nguyên như thích chữ vào mặt, cắt mũi, chặt chân, thiến v.v... đồng thời dùng nguyên tắc khoan hồng trong xét xử.

  • Nghiêm trị những quan lại tham nhũng bằng các cực hình như chém bêu đầu, tùng xẻo, giết cả họ v.v... Nhờ những chính sách nói trên, trong vòng 30 năm đầu đời Minh, kinh tế được khôi phục nhanh chóng và bước đầu phát triển, tình hình chính trị được ổn định, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện.

Cải cách ruộng đất[sửa | sửa mã nguồn]


Vì xuất thân từ một gia đình nông dân, Minh Thái Tổ đã biết được sự khốn khó của nông dân nghèo khi luôn bị bóc lột bởi bọn quan lại và cường hào. Bọn thổ hào địa phương luôn dựa vào mối quan hệ với quan viên triều đình mà chiếm đoạt ruộng đất của nông dân và hối lộ quan chức để chuyển gánh nặng thuế má sang cho người nghèo. Để ngăn ngừa những việc này, Hồng Vũ hoàng đế đã cho ban hành hai hệ thống để vừa bảo đảm thu nhập của triều đình từ tô thuế ruộng đất và xác nhận rằng nông dân không bị mất đất.

Tuy nhiên, các cải cách đã không diệt được mối đe dọa cho nông dân đến từ bọn tham quan, thay vào đó, sự mở rộng và sự gia tăng uy tín của quan liêu đã được chuyển thành tài sản và sự miễn thuế cho những ai phục vụ trong bộ máy chính quyền. Các quan chức đạt được nhiều đặc quyền hơn và một số trở thành những kẻ cho vay nặng lãi bất hợp pháp và quản lý các sòng bạc. Bằng cách sử dụng quyền lực của mình, quan lại mở rộng điền sản của mình với chi phí là ruộng đất của nông dân thông qua việc mua đứt các khoảnh đất đó hoặc tịch thu đất đai dựa trên thế chấp của nông dân cứ mỗi khi chúng cần thêm đất đai. Nông dân bây giờ phải đi ở thuê hoặc làm lao dịch, hoặc đi tìm việc làm ở nơi khác.

Vào những ngày đầu hình thành chính quyền Nhà Minh vào năm 1357, Minh Thái Tổ đã đặt rất nhiều sự quan tâm của mình vào việc phân phát đất đai cho nông dân. Một cách để thực hiện việc đó là cưỡng ép di dân đến những vùng dân cư thưa thớt hơn, có người còn bị trói vào cây mà mang đi. Các công trình công cộng như hệ thống thủy lợi và đê điều đều được thực hiện để trợ giúp nông dân. Ngoài ra, Hồng Vũ hoàng đế còn cho giảm các loại lao dịch lên nông dân. Năm 1370, nhà vua hạ chiếu cho hai tỉnh An Huy và Hồ Nam phải giao đất cho nông dân trẻ đã đến tuổi trưởng thành để cày cấy. Chiếu lệnh này là để ngăn chặn địa chủ chiếm đất của nông dân, nó cũng bao gồm việc mảnh đất đó trên danh nghĩa là không thể thuyên chuyển. Vào giữa thời Hồng Vũ, nhà vua thông qua một đạo luật, cho phép những ai đi khai khẩn đất hoang để trồng trọt được giữ lại đất như tài sản mà không phải đóng thuế. Chính sách này được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt và vào năm 1393, đất canh tác tăng đến 8,804,623 khoảnh và 68 mẫu, điều này chưa hề có trong các triều đại trước.

Hồng Vũ hoàng đế còn phát động việc trồng 50 triệu cây cối khắp phụ cận Nam Kinh, sửa sang lại kênh rạch thủy lợi, và cho di dân từ nam lên bắc để bổ sung dân số. Nhà vua đã thành công trong việc gia tăng dân số từ 60 triệu lên đến 100 triệu.


Quân sự[sửa | sửa mã nguồn]


Minh Thái Tổ nhận ra rằng người Mông Cổ vẫn là một mối đe dọa thường trực cho Trung Hoa, dù rằng chúng đã bỏ chạy sau sự sụp đổ của Nhà Nguyên. Nhà vua quyết định đánh giá lại quan điểm chính thống của Nho gia là giai cấp võ nhân luôn phải ở mức độ kém hơn giai cấp văn nhân bắt nguồn từ thời Tống. Minh Thái Tổ cho giữ vững một đội quân hùng mạnh mà vào năm 1384, nhà vua đã tổ chức lại theo hệ thống "vệ sở". Mỗi đơn vị quân sự bao gồm 5,600 người được chia vào 5 sở và 10 binh đoàn. Đến năm 1393, tổng quân số vệ sở đã đạt đến 1,200,000 người. Quân lính được phân phát đất đai để trồng trọt và chức vụ được thế tập. Loại hình vệ sở có thể được truy ngược lại chế độ phủ binh của thời Tùy Đường. Trong khi quân đội Nhà Minh thời kì đầu cực kì thiện chiến, đội quân này đã mất khả năng thực hiện các chiến dịch tấn công sau cái chết của Minh Thành Tổ, cuối cùng quân Minh đã bị quân Mông Cổ đánh bại trong sự biến Thổ Mộc Bảo vào năm 1449 thời Chính Thống của Minh Anh Tông.

Việc huấn luyện quân sự được thực hiện ngay tại địa phương. Vào thời chiến, quân lính được điều động từ khắp nơi trên đế quốc theo lệnh của Binh bộ, còn các chỉ huy thì được chỉ định để dẫn dắt quân lính ra trận. Sau khi kết thúc chiến tranh, quân đội được chia thành nhiều nhóm nhỏ và được điều về địa bàn quận huyện của mình, còn tướng lĩnh thì phải giao lại binh quyền cho triều đình. Việc này nhằm ngăn chặn tướng lĩnh nắm quyền lực quá lớn, khó mà khống chế. Tuy nhiên, nó cũng có hệ quả là quân đội lại nằm dưới sự chỉ huy của một quan viên dân sự chứ không phải một tướng lĩnh quân sự.


Luật pháp[sửa | sửa mã nguồn]


Bộ luật được viết nên dưới thời Hồng Vũ được xem là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của cả thời đại. Bộ Minh sử nói rằng vào những năm 1364 thì chính quyền Minh của Chu Nguyên Chương đã bắt đầu phác thảo một bộ luật pháp. Đây chính là Đại Minh luật (大明律). Nhà vua dành rất nhiều thời gian cho công trình này và huấn thị các thượng thư của mình rằng bộ luật phải thật toàn diện và dễ hiểu, tránh cho quan lại khai thác các lỗ hổng bằng cách cố ý hiểu sai nghĩa. Đại Minh luật đặt trọng tâm vào các mối quan hệ trong gia đình. Bộ luật cũng là một sự cải thiện to lớn so với luật pháp thời Đường Sơ về các vấn đề nô lệ. Theo luật pháp Nhà Đường, nô tì bị đối xử như súc vật trong nhà, nếu lỡ có người dân nào giết đi thì người dân ấy không phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Còn Đại Minh luật bảo vệ cả người dân và nô tì.


Chống nạn tham ô[sửa | sửa mã nguồn]


Sau khi Chu Nguyên Chương lập nên Nhà Minh, ông đã thực hiện chiến dịch “bàn tay sắt”, triệt để chống nạn tham ô. Cách ông trừng phạt kẻ tham quan ô lại cũng vô cùng tàn nhẫn.

Chu Nguyên Chương từng cảnh cáo các quan lại dưới triều của mình rằng:

Trước đây, khi còn sống trong dân gian, ta đã nhìn thấy phần lớn các quan lại ở Châu huyện không yêu dân, chỉ tham tài háo sắc, ngày ngày chím đắm trong men say, không được tích sự gì, dân thường vì thế khổ sở lầm than. Nhìn thấy cảnh đó mà không thể làm gì được, trong lòng ta rất hận. Nay, ta phải ban lệnh thật nghiêm, phàm là quan lại tham ô, bóc lột bách tính, ta sẽ trừng trị không tha”.

Thứ nhất, ông đưa ra quy định, cứ tham ô 10 lượng bạc thì phải chịu thụ hình phạt. Tham ô từ 60 lượng bạc trở lên thì người đó đã mắc đại tội. 60 lượng bạc trước đây tương đương với 12 ngàn tệ (khoảng 39 triệu VNĐ) hiện nay. Nhiều người thắc mắc liệu khoản tiền này có đủ để quy thành tội tham ô hay không? Nhưng hoàng đế triều Minh thì đã định nó vào đại tội.

Thứ hai, Chu Nguyên Chương áp dụng những hình phạt rất tàn khốc. Kẻ tham nhũng nhẹ thì bị lưu đày, sung quân, nặng thì bị tử hình, nặng hơn nữa thì bị rút gân lột da, biến tên tội phạm thành bù nhìn đặt ở công trường. Bao nhiêu người phạm tội thì có bấy nhiêu người chịu hình phạt.

Thứ ba, Chu Nguyên Chương còn cho phép dân chúng tố cáo quan tham. Luật pháp triều Minh quy định, người nào bị phát hiện tham nhũng sẽ lập tức bị đưa đến nha phủ hoặc áp giải trực tiếp lên kinh thành để chém đầu thị chúng. Hình phạt quả thực rất nghiêm. Trong suốt 276 năm của triều Nhà Minh, số tham quan bị giết do tham ô đã lên đến 150 ngàn người. Con số đó quả thực rất khủng khiếp, giống như thể các quan viên của Nhà Minh đều bị xử tử hết vậy.


Đối với Nho giáo[sửa | sửa mã nguồn]


Được sự hỗ trợ bởi các Nho sĩ, Minh Thái Tổ chấp nhận ý kiến của giới Nho sĩ rằng thương nhân chỉ giống như bọn ăn bám. Nhà vua tin rằng nông nghiệp mới là nguồn thu nhập chính của quốc gia, trong khi thương nghiệp chỉ dành cho bọn ti tiện. Như một hệ quả, nên kinh tế của Nhà Minh đặt trọng tâm vào nông nghiệp, trái ngược với hệ thống kinh tế của Nhà Tống, những người đi trước người Mông Cổ và chú trọng vào thương nhân và buôn bán để gia tăng thu nhập cho quốc gia. Minh Thái Tổ còn duy trì việc thành lập các cộng đồng nông nghiệp tự cung tự cấp.

Tuy nhiên, định kiến của nhà vua đối với thương nghiệp không làm giảm số lượng thương nhân. Trái lại, số lượng thương nhân tăng vọt trong suốt thời Hồng Vũ cùng với sự phát triển về công nghiệp trên khắp đế quốc. Sự gia tăng trong buôn bán một phần là do điều kiện đất đai cằn cỗi và sự quá tải dân số ở một vài vùng đã buộc người dân phải tìm kiếm vận may trong buôn bán.


Đối với Hồi giáo[sửa | sửa mã nguồn]


Minh Thái Tổ đã hạ chiếu cho xây dựng một số nhà thờ Hồi giáo ở Nam Kinh, Vân Nam, Quảng Đông và Phúc Kiến, và cho khắc những lời ca tụng nhà tiên tri Muhammed trong các nhà thờ. Nhà vua cho xây lại nhà thờ Jinjue ở Nam Kinh và một lượng lớn người Hồi chuyển vào thành phố trong thời Hồng Vũ.

Một số tư liệu cho thấy Minh Thái Tổ giữ mối quan hệ thân cận với người Hồi, và có khoảng 10 vị tướng dưới trướng nhà vua là người Hồi giáo, trong đó có Lam Ngọc, Mộc Anh, Hồ Đại Hải,....Hoàng đế còn cho viết một bài văn 100 chữ ca ngợi đạo Hồi, thánh Allah và nhà tiên tri Muhammed.


Chính sách ngoại giao[sửa | sửa mã nguồn]


Minh Thái Tổ là người không thích xen vào việc nội bộ của quốc gia khác và phản đối dùng quân sự đối với các nước láng giềng. Ngay từ năm 1369, vua Trần Dụ Tông (Minh thực lục ghi là Trần Nhật Khuê) đã sai sứ sang triều cống Minh Thái Tổ, trở thành vua lân bang đầu tiên cử sứ sang triều cống Nhà Minh.[5] Minh Thái Tổ từ chối can thiệp vào Chămpa khi Đại Việt tấn công người Chăm, chỉ thể hiện một sự trách cứ người Việt. Ông đặc biệt căn dặn các hoàng đế tương lai chỉ nên phòng thủ trước các bộ tộc phương bắc, không nên thực hiện việc tấn công nhằm mở rộng bờ cõi và tìm kiếm vinh quang. Trong Hoàng Minh Tổ Huấn viết vào năm 1395, Minh Thái Tổ viết rõ rằng Nhà Minh không nên tấn công các quốc gia sau: Chămpa, Campuchia và An Nam (Việt Nam). Minh Thái Tổ khuyên rằng không nên tấn công Nhung Địch ở phía bắc mà chỉ nên tập trung vào việc phòng thủ.

Thế nhưng Minh Thái Tổ có những phản ứng rất gay gắt đối với những kẻ cố gắng đe dọa Trung Hoa. Ông cho sứ thần đến Nhật Bản với lời cảnh cáo rằng quân đội của ông sẽ "bắt và diệt sạch bọn cướp các ngươi, tiến thẳng đến nước các ngươi và trói vua của các ngươi lại", do việc đánh phá liên tục của cướp biển Oa Khấu Nhật Bản.


Sự phát triển của Nhà Minh[sửa | sửa mã nguồn]


Mặc dù thời Hồng Vũ Nhà Minh đã bắt đầu sử dụng tiền giấy, việc phát triển tiền giấy bị bóp nghẹt khi chưa bắt đầu. Do không hiểu về lạm phát, Minh Thái Tổ đã phát hành ra rất nhiều tiền giấy như những phần thưởng và vào năm 1425, triều đình phải cho thu hồi tiền giấy và áp dụng lại tiền đồng vì tiền giấy đã bị tụt giá chỉ còn 1/70 giá trị ban đầu.

Trong suốt thời Hồng Vũ, Nhà Minh sơ được đặc trưng bởi sự gia tăng dân số đều đặn và đáng kể, phần nhiều là do sự gia tăng lương thực nhờ vào những cải cách nông nghiệp của hoàng đế. Thời Minh mạt, dân số đã tăng tới 50%. Việc này được thúc đẩy bởi những cải tiến quan trọng trong kỹ thuật nông nghiệp, nhờ vào một nhà nước vốn chuyên về nông canh lên nắm quyền vào giữa lúc có một cuộc khởi nghĩa nông dân thân Nho giáo. Trong suốt thời cai trị của nhà vua, mức sống của người dân đã được cải thiện đáng kể.


Quan chế[sửa | sửa mã nguồn]


Để cho vương triều Minh của họ Chu kế tục lâu dài, Minh Thái Tổ trước mắt tăng cường chế độ trung ương tập quyền. Năm Hồng Vũ thứ 9 (1376) bãi bỏ Hành trung thư tỉnh, thiết lập Bố chính sứ ty, Đề hình Án át sứ ty, Đô chỉ huy sứ ty phân ra để quản lý hành chính tư pháp, quân sự. Năm Hồng Vũ thứ 13 (1380) hủy bỏ chức Trung thư tỉnh ở trung ương, bãi bỏ chế độ Tể tướng, phân quyền cho sáu bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Thiết lập Đô sát viện giám sát trăm quan, lập Cẩm y vệ là những cơ cấu đặc vụ có nhiệm vụ khống chế thần dân. nhưng sau tể tướng Hồ Duy Dung làm phản, ông ban lệnh hành quyết, đồng thời bãi bỏ chức Tể tướng Trung Quốc, ông cho rằng tể tướng có quyền lực gần bằng hoàng đế, nên có thể tạo phản bất cứ lúc nào.

Thái Tổ đã cố gắng và khá thành công trong việc tập trung quyền lực, kiểm soát hết mọi mặt của triều đình để không có đảng phái nào đủ mạnh để lật đổ ông. Ông còn cho củng cố sức mạnh phòng thủ chống lại người Mông Cổ và ngày càng tăng cường thu thập quyền lực vào trong tay. Nhà vua cho bỏ chức vụ tể tướng là vị trí đầu não trong triều đình đã có từ ngàn năm bằng cách vu cho tể tướng của mình mưu phản. Bằng cách bãi bỏ chức vụ tể tướng và thu hết quyền lực của triều đình vào trong tay một mình nguyên thủ, Hồng Vũ hoàng đế đã bỏ đi tấm lá chắn cuối cùng có thể chống lại những hoàng đế vô năng đời sau. Trong lịch sử, quân chủ Nhà Minh là kém nhất, không hôn (Minh Thế Tông, Minh Thần Tông) thì bạo (Minh Thành Tổ), giỏi lắm cũng được cho là bình thường (Minh Tuyên Tông, Minh Hiếu Tông), còn lại là bọn lười biếng ham chơi (Minh Hiến Tông, Minh Vũ Tông), đến lúc có người muốn làm việc thì khí số đã hết (Minh Tư Tông)[6].

Tuy nhiên, Thái Tổ không thể nào điều hành cả một đế quốc Đại Minh rộng lớn chỉ bằng sức lực bản thân, vì thế ông phải thành lập thêm chế độ Đại học sĩ. Chế độ gần giống với nội các này từng bước thay thế quyền lực của chức vụ tể tướng đã bị bãi bỏ và dần dần trở nên có quyền thế không khác gì chế độ tể tướng. Nhìn vẻ bề ngoài không có thực quyền, các vị Đại học sĩ có thể có một số ảnh hưởng tác động tích cực lên ngai vàng. Bởi vì uy tín và niềm tin mà cộng đồng dành cho họ, các Đại học sĩ có thể hành động như cầu nối trung gian giữa hoàng đế và quan viên các bộ, vì thế tạo nên một lực lượng hòa giải trong triều.

Dưới thời Hồng Vũ, hệ thống quan liêu của người Mông Cổ thống trị Nhà Nguyên bị thay thế bằng các quan viên người Hán. Hồng Vũ hoàng đế đã cho cải tiến lại hệ thống khoa cử để tuyển dụng quan chức dựa trên các mô hình đạo đức Nho giáo và tài năng văn chương. Các ứng cử viên cho các chức vụ quản lý dân sự và chức vụ sĩ quan quản lý quân đội đều buộc phải thông qua kỳ thi sát hạch của triều đình, dựa trên các yêu cầu của Tứ thư Ngũ Kinh. Hệ thống quan liêu Nho giáo này, vốn bị gạt ra ngoài chính quyền vào thời Nguyên, nay đã được khôi phục lại vị thế của mình trong chính quyền.

Minh Thái Tổ cũng rất chú ý đến vai trò của hoạn quan trong việc sụp đổ của các triều đại trước. Ông cho giảm mạnh số lượng hoạn quan, cấm tiệt việc hoạn quan xử lý tấu chương, nhấn mạnh rằng hoạn quan phải mù chữ và cho chém hết những hoạn quan dám có lời bàn về việc triều chính. Nhà vua có ác cảm rất mạnh với hoạn quan, tổng kết bằng câu nói ghi trên bảng sắt: "Hoạn quan không được can chính, kẻ phạm vào thì giết không tha". Tuy nhiên ác cảm này không được truyền lại cho những hoàng đế đời sau, khi việc hai vị hoàng đế Hồng Vũ và Kiến Văn đối xử tệ bạc với hoạn quan đã giúp cho Minh Thành Tổ thành công trong việc cướp ngôi nhờ các hoạn quan và Vĩnh Lạc đã sử dụng hoạn quan như là cơ sở quyền lực của mình. Minh Thái Tổ còn không chấp thuận việc cho họ hàng bên vợ của mình vào triều làm quan, chính sách này được giữ vững vào các triều đại tiếp theo.


Sát hại công thần[sửa | sửa mã nguồn]


Giống như Lưu Bang nhà Hán, Minh Thái Tổ đã gây ra nhiều vụ án văn chương và gây ra nhiều án liên lụy đến nhiều người nhằm diệt trừ hậu họa cho con cháu.[7] Ông nhận thấy Thái tử nhu nhược, khó mà điều khiển nổi những công thần bướng bỉnh không thuần, trước khi ông qua đời còn giúp cho con cháu diệt trừ tận gốc. Tống Liêm là thầy của Thái tử, từ những năm đầu đã theo làm tham mưu cho Thái Tổ vào sinh ra tử chốn quân trường, lập được nhiều công to, làm quan đến chức Học sĩ Thừa chỉ tri chế cáo. Thái Tổ cũng viện cớ để giết ông ta, Thái tử thấy thầy bị kết án chém, rơi lệ cầu xin cho thầy. Để dạy bảo Thái tử, ông cho mang một cây roi lớn có đầy gai nhọn quẳng xuống đất, bảo Thái tử nhặt lên. Thái tử có vẻ lúng túng, nhà vua liền dạy rằng:




Thái tử thông minh hiểu được ý của cha, nhưng cũng không cho là đúng, liền khuyên giải vua cha một cách khéo léo rằng:




Ngụ ý là làm vua không được tàn bạo. Thái Tổ rất giận dữ, liền tóm lấy ghế quẳng về hướng thái tử.

Việc này cho thấy Hồng Vũ Đế sau khi đã ngồi trên ngai rồng đã xem công thần là những gai nhọn cần phải loại bỏ. Thống nhất thiên hạ rồi, không thể dùng võ tướng nữa, ông đã tính kỹ cho con cháu. Dùng quan văn để trị thiên hạ, Thái Tổ vẫn không an tâm, cho nên quyền lực từ trung ương đến địa phương hầu hết đều tập trung trong tay Hoàng đế, phát triển chế độ Trung ương tập quyền đến đỉnh cao, trở thành một trong những vị vua có quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc[8].

Minh Thái Tổ luôn cho rằng thần dân của ông nên tuân lệnh ông và cực kỳ khét tiếng với việc giết chóc trong các cuộc thanh trừng của mình. Các hình phạt ưa thích của ông là lăng trì và lột da. Một tướng lĩnh của ông là Thường Ngộ Xuân đã thực hiện các cuộc thảm sát ở Sơn Đông và Hồ Nam để trả thù cho việc quân đội của ông bị chống trả. Cùng với thời gian, Minh Thái Tổ trở nên ngày càng lo sợ sẽ bị mưu phản và lật đổ, thậm chí ông còn cho hành quyết các quan viên dám chỉ trích mình. Tương truyền chỉ vì nghe một người dân có lời bất kính với mình mà Hồng Vũ hoàng đế cho tàn sát hàng nghìn người ở Nam Kinh. Vào năm 1380, sau khi đã giết chóc rất nhiều, một tia sét đã đánh thẳng vào cung điện của nhà vua, Minh Thái Tổ cực kỳ sợ hãi và đã dừng các cuộc giết chóc lại một thời gian vì nhà vua sợ bị thiên khiển (trời phạt).

Minh Thái Tổ tạo nên những vụ án lớn, văn thần võ tướng, tất cả đều bị càn quét triệt để. Năm Hồng Vũ thứ 13 (1380), Minh Thái Tổ dùng tội danh “tự quyền xây dựng phe phái” đã giết Thừa tướng Hồ Duy Dung. Sau khi giết Hồ Duy Dung rồi, Chu Nguyên Chương cũng bãi bỏ luôn cơ quan Trung thư tỉnh và đề cao vai trò của 6 bộ. Từ đó công việc chính trị trong nước do 6 bộ phân chia nhau thực hiện và trực tiếp nghe lệnh hoàng đế. Việc làm đó đã thâu tóm quyền lực vào tay một mình hoàng đế và xóa bỏ chế độ tể tướng vốn tồn tại 1500 năm ở Trung Quốc. Mặc dù vậy, Chu Nguyên Chương vẫn chưa yên tâm. Ông cảm thấy thái tử Chu Tiêu bản chất trung hậu nhu nhược không thể trấn áp được các công thần. Bởi thế, 10 năm sau khi giết Hồ Duy Dung, Chu Nguyên Chương lại dựng tù ngục, dùng tội danh “thông đồng với Hồ Duy Dung, mưu đồ làm phản" để giết một lượng lớn các công thần, lão tướng như Lý Thiện Trường, Lục Trọng Đình, Đường Thắng Tông...

Theo sách "16 hoàng đế triều Minh" của Vương Thắng Hữu chủ biên thì “Những người liên lụy bị tù, bị giết đã tới trên 3 vạn người”. Minh Thái Tổ còn biên soạn một tài liệu là “chiêu thị gian đảng lục” để công bố những kẻ bị kết tội mưu phản ra khắp thiên hạ. Vụ việc dây dưa kéo dài tới mấy năm vẫn chưa xong gây nhiều hoang mang. Trong số các công thần bị giết, vụ của Lý Thiện Trường là một điển hình. Nghe nói Lý Thiện Trường có giúp đỡ cho Hồ Duy Dung làm phản, Minh Thái Tổ cũng ra lệnh giết. Năm ấy Lý Thiện Trường đã 77 tuổi, muốn sống những ngày cuối đời nhà vua cũng không cho. Cùng với ông, cả gia đình hơn bảy mươi nguời cũng bị giết.

Hết đợt sóng này tiếp nối đợt sóng khác, sau việc trên hai năm lại sinh ra vụ án Lương Quốc Công Lam Ngọc . Thường ngày, Lam Ngọc có nhược điểm là hay kể công kiêu ngạo, Minh Thái Tổ vốn đã có cái nhìn không mấy thiện cảm. Tháng 2 năm Hồng Vũ thứ 26 (1393) Cẩm y vệ báo cáo: Lam Ngọc có ý làm phản. Được tin, Minh Thái Tổ hạ lệnh bắt  vị Quốc công này. Cẩm y vệ dùng hình phạt tàn bạo để thẩm vấn, buộc ông phải khai đồng đảng. Liên lụy tới vụ này gồm Cảnh Xuyên hầu Tào Chẩn, Nhạn Ứng hầu Trương Dực, Thượng thư bộ Lại Chiêm Huy, Thị lang bộ Hộ Bạc Hữu Văn, … vì nhà vua cho rằng họ đã bàn bạc với nhau nhân khi Hoàng đế làm nghi thức “Tịch điền” sẽ phát động chính biến. Lam Ngọc bị xé xác, tam tộc bị tru di. Phàm là những nguời có liên quan tới vụ án hoặc nguời có qua lại với Lam Ngọc đều bị giết cả nhà. Lần giết hại này có nhất Công, nhị Bá, thập tam Hầu, ngoài ra còn hơn mười nguời là những tướng lĩnh có công chinh chiến và rất nhiều quan văn cao cấp. Só nguời bị giết có nguời nói  hơn một vạn năm nghìn, có nguời nói tới hai vạn.

Ngoài những nguời bị giết trong hai vụ án này, còn có mấy công thần có liên lụy tưởng thoát nạn nhưng cuối cùng cũng không gặp may mắn. Sau khi vụ án Lam Ngọc kết thúc một năm, Minh Thái Tổ giết Định Viễn hầu Vương Bật và Vĩnh Bình hầu Tạ Thành cũng vì bị coi là phạm tội lớn. Lúc đó, Vương Bật đã cáo lão về nghỉ, cũng bị triệu hồi kinh sư để giết. Qua hơn một năm Dĩnh Quốc công Bạc Văn Đức và Tống Quốc công Phùng Thắng không hiểu nguyên nhân vì sao cũng phải tự sát. Để thực hiện độc tài chuyên chế, bảo đảm thiên hạ tồn tại với con cháu vạn đời, Chu Nguyên Chương “lục thân bất nhận”, giết cả cháu ruột là Chu Văn Chinh, đầu độc cháu ngoại là Lý Văn Trung chỉ với lý do họ “thân cận Nho sinh”, “lễ hiền hạ sĩ”, trong khi họ đều là những nguời vào sinh ra tử, lập rất nhiều chiến công.

Trong cuộc khủng bố giết hại công thần của Chu Nguyên Chương, chỉ có một nguời may mắn tránh được là Khai quốc nguyên huân Tín Quốc công Thang Hòa. Ông là nguời cùng thôn với Chu Nguyên Chương, vốn xuất thân là nguời coi gia súc. Ông là nguời rất hiểu Chu Nguyên Chương, tường tận tâm lý của Hoàng thượng nên ông đã cẩn thận lo xa, sau khi sự nghiệp thành công vội giao binh quyền, cáo lão về quê nên mới bảo toàn được tính mạng.

Chu Nguyên Chương còn để cho cơ quan đặc vụ Cẩm y vệ hoạt động công khai, từ sau bức rèm the lại nhảy lên tiền đài.[9] Trong hơn 30 năm cai trị của Minh Thái Tổ, Cẩm Y vệ chịu trách nhiệm cho cái chết của hơn 10 vạn người.

Những năm cuối đời, Minh Thái Tổ còn ban bố điều lệ Hoàng Minh tổ huấn, yêu cầu con cháu cùng các công thần phải tuân thủ "phép tắc của tổ tông", quy định đời sau kẻ nào sửa đổi điều tổ tông đặt ra thì giết không tha. Ông đã giữ chính sách bế quan tỏa cảng, trở thành "tổ huấn", dĩ nhiên là "tổ huấn" đó đã được giữ khư khư một cách tiêu cực, làm cho nền chính trị của vương triều Minh bị ảnh hưởng một cách lâu dài.


Mất, người kế vị[sửa | sửa mã nguồn]


Vào ngày 24 tháng 6 dương lịch năm Hồng Vũ thứ 31 (1398), Minh Thái Tổ băng hà ở Nam Kinh, hưởng thọ 71 tuổi. Sau khi ông chết, các ngự y của ông đã bị lưu đày. Khi hai hoàng đế Hoằng Trị và Gia Tĩnh băng hà thì ngự y của họ đều bị xử tử. Ông được táng ở Hiếu lăng, miếu hiệu là Thái Tổ, thụy là Cao hoàng đế.

Chu Nguyên Chuơng tổng cộng có 26 nguời con trai nhưng càng về cuối đời ông càng cảm thấy buồn rầu, bất an vì chưa biết giang sơn cơ nghiệp Đại Minh sẽ giao lại cho ai là xứng đáng. Hoàng tử trưởng nam Chu Tiêu là người may mắn được chọn làm người kế vị. Ngay khi Chu Tiêu 13 tuổi đã được lập làm hoàng thái tử. Thậm chí ông còn mời danh sĩ nổi tiếng Triết Giang đương thời là Tống Liêm về dạy cho thái tử với hi vọng Chu Tiêu sẽ là người thừa kế đầy tài năng. Sau 25 năm trau dồi kiến thức, thêm độ chín của tuổi đời 38, Chu Tiêu hoàn toàn đủ bản lĩnh nối ngôi cha. Nhưng không may, tháng 1/1392 sau khi đi thị sát Thiểm Tây trở về trên người Chu Tiêu mọc bướu dữ đau đớn vô cùng, và cuối cùng mất sớm.

Chu Tiêu mất sớm khiến Chu Nguyên Chuơng vô cùng đau lòng. Trong những người con trai còn lại thì ít người có thể tin tưởng được. Chu Vuơng, Tấn Vuơng đều là người có dã tâm lớn. Tần Vuơng là kẻ hoang đường thối nát, Lỗ Vuơng đần độn hơn người. Các vương tử khác kẻ thì phạm tội giết người kẻ thì đắm chìm trong tửu sắc không thì cũng không có chút kinh nghiệm cũng như tài năng chính trị nào.

Cuối cùng chỉ còn lại Yến Vương Chu Đệ và cháu đích tôn Chu Doãn Văn (con trai thứ của hoàng thái tử Chu Tiêu). Đối với Chu Doãn Văn, Chu Nguyên Chuơng mang nhiều trăn trở. Ông vừa yêu thích tính cách đầy nhân từ mềm mỏng, đặc biệt là sự hiếu kính của Doãn Văn, nhưng ông lại cảm thấy lo sợ bất an. Liệu rằng đôi vai yếu ớt và bản lĩnh nhân từ yếu mềm kia có gánh nổi trọng trách.

Chu Nguyên Chuơng cũng từng trưng cầu ý kiến đối với các đại thần về vấn đề này. Chính sự cai trị hà khắc của Chu Nguyên Chương nên các quan văn trong triều luôn ủng hộ Chu Doãn Văn nối ngôi bởi một vị vua nhân từ và mềm mỏng hơn trong cai trị sẽ khiến dân chúng và các đại thần “dễ thở” hơn. Ngược lại các quan võ đều muốn ủng hộ Chu Đệ bởi chỉ có người tài năng bản lĩnh như Chu Đệ mới đủ khả năng gánh vác trọng trách này.

Đối với người con trai thứ tư Yến Vương Chu Đệ, chính bản thân Chu Nguyên Chuơng cũng vô cùng yêu quý và ngưỡng mộ chữ "Võ" trong con người Chu Đệ. Chu Đệ được nuôi lớn và hun đúc trưởng thành trong mùi khói lửa của các trận chiến. Nếu xét về tài năng và bản lĩnh, Chu Đệ không hề thua kém Chu Nguyên Chương bởi đều là bậc anh hùng thao lược hiếm có trong thiên hạ. Chu Đệ là người dũng mãnh mưu trí hơn người, khi mới 33 tuổi ông đã được coi là nhất đại “chiến thần”.

Nhưng cuối cùng, Chu Nguyên Chương đã đưa ra một quyết định vô cùng khó khăn: Lập cháu nội Chu Doãn Văn 16 tuổi làm hoàng thái tôn để lên kế vị, tức là vua Minh Huệ Đế. Một trong những nguyên nhân khiến Chu Nguyên Chương đưa ra quyết định này chính là vấn đề xuất thân không rõ ràng của Chu Đệ. Theo các nhà sử học, xuất thân của Chu Đệ đến nay lịch sử vẫn còn rất nhiều giả thuyết khác nhau nhưng đa phần đều có một điểm chung rằng Chu Đệ không phải là con đẻ của Mã hoàng hậu. Đây chính là lý do lớn nhất khiến Chu Đệ không được chọn làm người kế vị.

Nhưng Chu Nguyên Chương không ngờ rằng đây chính là quyết định sai lầm của mình. Ông không bao giờ biết rằng quyết định của mình đã kéo theo cuộc nội chiến giành ngôi vị do Chu Đệ phát động để đoạt lại thiên hạ từ tay người cháu Chu Doãn Văn. Sau khi xưng đế, Chu Đệ đã cho sửa lại toàn bộ sử sách và tìm mọi cách chứng minh Mã hoàng hậu chính là mẹ đẻ của mình, đồng thời còn tìm cách đưa ra nhiều chứng cứ chứng minh mình chính là người thừa kế hợp pháp và được Chu Nguyên Chương có ý lựa chọn để truyền hoàng vị.


Hậu thế[sửa | sửa mã nguồn]


Sau khi qua đời, Minh Thái Tổ được chôn cất ở Minh Hiếu lăng.

Minh Thái Tổ đã vì giang sơn muôn đời của Đại Minh mà khổ tâm sắp đặt, trừ hậu họa cho con cháu, ban bố tổ huấn, nhưng sự việc cuối cùng lại không theo như ý muốn. Sau khi ông qua đời, mộ phần chưa ráo, thì chú cháu tranh đoạt quyền lực lẫn nhau, "tổ huấn" của ông đã bị người con thứ tư của ông là Chu Đệ phá hoại, chính là Thành Tổ sau này. Thành Tổ chiếm ngôi hoàng đế, dời đô từ Nam Kinh về Yên Kinh, dù trước đó Thái Tổ từng dặn dò con cháu phải đề phòng các rợ tộc phương Bắc xâm chiếm, không được đóng đô ở gần phương Bắc mà phải ở phương Nam.

Minh Thái Tổ giết hại công thần, không còn ai để giao việc, tự mình chọn trưởng tôn Chu Doãn Văn làm người kế vị nhưng đã bị chết trong binh lửa. Ông còn dựng bảng sắt cấm chỉ hoạn quan can dự chính sự, mà đến đời Thành Tổ có đến 24 nha môn lọt vào tay hoạn quan, hoạn quan đã nắm giữ cơ quan đặc vụ, triều Minh đã trở thành triều đại mà hoạn quan gây họa kịch liệt nhất.

Minh Thái Tổ đặt một cánh quân hùng mạnh trấn giữ Liêu Đông, dặn dò con cháu trấn thủ biên cương phía bắc, nhưng sau này triều Minh lại bị một dân tộc thiểu số ngoài quan ải tiến vào lật đổ là người Nữ Chân.



Cũng giống như bao bậc đế vương khác, sau khi lên ngôi, ổn định giang sơn xã tắc, xây dựng thiên hạ thái bình cường thịnh, ông cũng lập hậu cung tuyển chọn mỹ nữ. Hậu cung của Chu Nguyên Chương cũng vô cùng nhiều giai nhân. Trong “Minh Hội điển” có ghi: “Thái tổ có tổng cộng 40 phi tần" có tài liệu ghi là 46 phi tần. Bất luận là con số nào mới chính xác thì điều này chứng minh rằng phi tần của Chu Nguyên Chương không dưới 40 người.

Chu Nguyên Chương nổi tiếng quản lý hậu cung vô cùng nghiêm khắc, thậm chí có phần tàn khốc. Chỉ cần phát hiện phi tần không chung thủy, sẽ xử nghiêm không cần lý do. “Thiết quần hình” là một trong những nhục hình tàn khốc, vô nhân tính mà đàn ông thời cổ đại dùng để trừng phạt những người phụ nữ bất trung. “Thiết quần” chính là dùng miếng sắt mỏng tạo thành hình giống chiếc quần. Nữ phạm sẽ phải mặc lên người, sau đó đốt nóng “Thiết quần”. Người chịu hình phạt này sẽ bị sắt nóng cháy xém da thịt, đau đớn mà chết.

Tương truyền, chính mẹ đẻ của Minh Thành Tổ Chu Đệ – Ngạc Phi (khi mang thai Chu Đệ được 7 tháng Ngạc Phi đã sinh non) đã phải chịu nhục hình “Thiết quần” (mặc quần sắt) tàn khốc đến chết. Chính vì sinh non trước một tháng, nên Chu Nguyên Chương đã nghi ngờ Ngạc Phi bất trung, tư thông với người khác. Cơn thịnh nộ nổi lên, không cần điều tra nguồn cơn, ông ta đã ban cho Ngạc Phi nhục hình “Thiết quần” đầy đau đớn. Xung quanh câu chuyện này, vẫn còn tồn tại rất nhiều tương truyền trong dân gian về nguyên nhân cái chết của Ngạc Phi. Có cách giải thích khác lại nói, do Ngạc Phi được đặc sủng mà trở nên kiêu căng, ngạo mạn, muốn ép Chu Nguyên Chương lập con đẻ của mình là Chu Đệ làm thái tử nên đã bị trừng phạt đến chết. Lại có quan điểm cho rằng, Ngạc Phi sinh ra Chu Đệ, Mã Hoàng hậu vô cùng yêu thích nên đã tìm cách hãm hại Ngạc Phi và nhận Chu Đệ là con đẻ của mình.

Sử cũ ghi lại rằng có một lần, người ta phát hiện trên con sông chạy ngang qua hậu cung Minh triều có một thi thể trẻ con. Sự việc này đã khiến Hoàng đế bốc hỏa, nhất quyết cho rằng một phi tần nào đó đã vụng trộm mới dẫn đến cục này. Nghĩ đi nghĩ lại vài ngày, Chu Nguyên Chương cho rằng Hồ Xung phi chính là "thủ phạm" nên đã sai người giết chết bà. Tuy nhiên, điều đáng buồn cười là khi đó, vị phi tần này tuổi đã ngoài 50, về cơ bản rất khó có con.

Thậm chí, cũng có những giai thoại cho rằng, Chu Nguyên Chương đã giết hại đến 5.000 cung nữ song cho đến nay, vẫn chưa có chứng cứ rõ ràng về việc này.


Với Mã hoàng hậu[sửa | sửa mã nguồn]


Tuy Chu Nguyên Chương là người rất đông phi tần, hậu cung hùng hậu nhưng vì sao ông lại không bị liệt vào danh sách các hoàng đế hoang dâm? Điều này có thể do chính cách ông đối xử với những người đẹp bên mình và đặc biệt là đối với người vợ tào khang, khiến hậu thế cảm thấy nể phục.

Tương truyền Chu Nguyên Chương là người trời không sợ, đất không sợ chỉ sợ mỗi hoàng hậu Mã Tú Anh không vui. Mã Tú Anh hoàng hậu là người có nhân phẩm tốt. Đối với trên thì nhất mực kính trọng, với kẻ dưới vô cùng nhân từ. Chính vì thế, hậu cung của Chu Nguyên Chương tương đối bình yên. Các phi tần, cung nữ và thái giám không ai là không phục bà.

Vì xuất thân nghèo khó, từng cùng Chu Nguyên Chương nếm mật nằm gai làm nên đại nghiệp chính, vì thế Mã hoàng hậu luôn biết tiết kiệm tiền bạc và trân quý sinh mệnh con người. Bà luôn trợ giúp Chu Nguyên Chương trong việc an bang trị quốc. Bà cũng thường xuyên can gián những việc làm sai trái của chồng. Tuy vậy, bà lại không phải là người ích kỉ khắt khe. Bà luôn thoải mái, thậm chí còn khuyến khích Chu Nguyên Chương nạp thêm phi tần. Ông cũng rất hiểu đức hạnh và tài năng của Mã hoàng hậu. Đối với Mã hoàng hậu, ông luôn dành cho bà sự kính trọng và không ai có thể thay thế được vị trí của bà.

Khi Mã hoàng hậu lâm trọng bệnh, Chu Nguyên Chương đã cho tìm danh y giỏi đến chữa bệnh. Hàng ngày, chính ông đích thân mang cơm, bón thuốc cho hoàng hậu. Đây quả là một vị hoàng đế hiếm có trong lịch sử.

Năm thứ 15 Hồng Vũ, Mã hoàng hậu qua đời thọ 51 tuổi. Chu Nguyên Chương đau lòng khôn xiết đã thề với trời đất không lập thêm ai làm hoàng hậu. Ông còn phong cho hoàng hậu thụy hiệu cao quý : Hiếu Từ Chiêu Hiến Chí Nhân Văn Đức Thừa Thiên Thuận Thánh Cao hoàng hậu và cái tên Hiếu lăng cũng bắt nguồn từ thụy hiệu này.



Chu Nguyên Chương tay không dựng nghiệp lớn, đánh đuổi được người Mông Cổ, giành lại quyền tự chủ của người Hán. Bản thân không có một tấc đất nương thân, nhưng qua tự lực phấn đấu mà khai sáng được giang sơn Đại Minh gần 300 năm, vì vậy trong dân gian lưu truyền nhiều giai thoại lạ lùng về ông, chính là thuật lại một cách tôn kính về sự nghiệp và mức độ thông minh tài trí của ông. Thái Tổ lập nghiệp ở phía nam sông Trường Giang mà xuất quân bắc phạt đánh đuổi người Mông Cổ, lấy được thiên hạ là lần duy nhất mà một lực lượng phía nam có thể thống nhất được toàn bộ quốc gia. Các triều đại trước ông như Tần, Hán, Tấn, Tùy, Đường, Tống, Nguyên và sau ông như người con Chu Đệ từ Bắc Kinh đánh xuống phía nam và Nhà Thanh đều xuất thân từ phía bắc. Trước và sau ông không ai có thể làm được như thế.

Trong chùa Long Hưng huyện Phụng Dương tỉnh An Huy có một cặp đối khái quát khá thần tình cả cuộc đời mà Thái Tổ nếm trải [cần dẫn nguồn]:




Tuy vậy, sự lạc hậu của Trung Quốc so với phương Tây bắt đầu từ đời Minh.[7] Sự lạc hậu này thì có nhiều nguyên nhân, trong đó có biện pháp thống trị chuyên chế bảo thủ của Thái Tổ, đặc biệt là thể chế chính trị tập quyền cao độ, quyền lực về kinh tế nằm dưới cực quyền chính trị, mà các chế độ về cửa ải bến sông, chế độ cấm buôn bán trên biển, chế độ hộ làm nghề thủ công, chế độ lưu thông hàng hóa... là nguyên nhân chủ yếu kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Những hạn chế này là do xuất thân của Thái Tổ. Ngoài ra, cách chọn nhân tài bằng lối văn bát cổ (một thể văn dùng trong các kỳ thi thời phong kiến, chỉ chuộng phô trương hình thức, ít chuộng giá trị đích thực của nội dung) và chủ trương văn hóa chuyên chế của triều Minh cũng là nguyên nhân chủ yếu để tạo nên sự đình trệ của xã hội Trung Quốc[10]. Công và tội của Thái Tổ đối với lịch sử đều đáng được suy ngẫm.



  • Hồng Vũ thứ 31, tháng 6, năm Giáp Thìn: Khâm minh Khải vận Tuấn đức Thành công Thống thiên Đại hiếu Cao hoàng đế, miếu hiệu Thái Tổ (欽明啟運俊德成功統天大孝高皇帝) [11]

  • Vĩnh Lạc nguyên niên, ngày 11 tháng 6, năm Đinh Tị: Thánh thần Văn vũ Khâm minh Khải vận Tuấn đức Thành công Thống thiên Đại hiếu Cao hoàng đế (聖神文武欽明啟運俊德成功統天大孝高皇帝) [12]

  • Gia Tĩnh thứ 17, tháng 11: Khai thiên Hành đạo Triệu kỉ Lập cực Đại thánh Chí thần Nhân văn Nghĩa vũ Tuấn đức Thành công Cao hoàng đế (開天行道肇紀立極大聖至神仁文義武俊德成功高皇帝) [12]


Tào Quốc Trưởng công chúa Chu Phật Nữ, chị của Minh Thái Tổ


  • Thân phụ: Chu Thế Trân [朱世珍, 1281 - 1344], thụy phong Nhân Tổ Thuần hoàng đế (仁祖淳皇帝).

  • Thân mẫu: Thuần hoàng hậu Trần thị [淳皇后陳氏, 1286 - 1344].

Anh chị em[sửa | sửa mã nguồn]


  1. Nam Xương Vương Chu Hưng Long [朱興隆; 1344]. Con trai là Chu Văn Chính (朱文正).

  2. Hu Di Vương Chu Hưng Thịnh [朱興盛].

  3. Lâm Hoài Vương Chu Hưng Tổ [朱興祖].

  4. Thái Nguyên công chúa [太原公主], trưởng tỉ, lấy Vương Thất Nhất (王七一).

  5. Tào Quốc công chúa [曹國公主; 1317 - 1351], nhị tỉ, tên Chu Phật Nữ (朱佛女), lấy Lý Trinh (李贞), mẹ của Lý Văn Trung (李文忠).

Hậu phi[sửa | sửa mã nguồn]


  1. Hiếu Từ Cao hoàng hậu Mã thị (孝慈高皇后马氏, 1332 - 1382), người ở Túc Châu. Dã sử xưng Mã Tú Anh (马秀英), Mã Ngọc Hoàn (马玉环) hoặc Mã Đại Cước (马大脚). Sinh ra Ý Văn Thái tử Chu Tiêu, Tần Mẫn vương Chu Sảng (朱樉), Tấn Cung vương Chu Cương (朱棡), Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc Đế, Chu Định vương Chu Túc (朱橚), Ninh Quốc Công chúa và An Khánh Công chúa.

  2. Thành Mục Quý phi Tôn thị (成穆貴妃孫氏, 1343 - 1374), người Trần Châu (Hoài Dương ngày nay), cha là Tôn Hòa Khanh (孫和卿). Hồng Vũ nguyên niên, sách phong Quý phi, đứng đầu chúng phi giúp Hoàng hậu quản lý sự vụ. Tôn Quý phi tính tình hiền thuận, tư sắc diễm mỹ, được Thái Tổ và Mã hoàng hậu coi trọng, gọi là Hiền phi (贤妃). Bà sinh ra Lâm An công chúa, Hoài Khánh công chúa và 2 Hoàng nữ chết yểu. Sau khi bà qua đời, Thái Tổ lấy Chu Định vương Chu Túc trở thành con của bà, phục tang 3 năm.

  3. Lý Thục phi (李淑妃), người Thọ Châu (Hoắc Khâu ngày nay), cha là Lý Kiệt (李傑). Năm Hồng Vũ thứ 17 (1384), sách phong Thục phi, chưởng quản hậu cung sự vụ, nhưng không lâu sau thì mất.

  4. Quách Ninh phi (郭寧妃), người Hào Châu; cha là Doanh Quốc công Quách Sơn Phủ (郭山甫); xuất thân danh môn Quách thị; bà là em gái của Đại tướng quân Quách Anh (郭英). Cai quản 6 cung sau khi Lý Thục phi qua đời. Không rõ năm mất, nhiều khả năng bị Minh Thái Tổ ban chết, sinh hạ Lỗ Hoang vương Chu Đàn, Nhữ Ninh Công chúa

  5. Triệu Quý phi (赵贵妃), sinh hạ Trầm Giản vương Chu Mô

  6. Giang Quý phi (江贵妃)

  7. Quách Huệ phi (郭惠妃), sinh hạ Thục Hiến vương Chu Xuân, Đại Giản vương Chu Quế, Dục vương Chu Huệ, Vĩnh Gia Trinh Ý Công chúa, Nhữ Dương Công chúa, Đại Danh Công chúa

  8. Trang Tĩnh An Vinh Huệ phi Thôi thị (莊靖安荣惠妃崔氏)

  9. Chiêu Kính Sung phi Hồ thị (昭敬充妃胡氏), sinh hạ Sở Chiêu vương Chu Trinh

  10. Trịnh An phi (郑安妃), sinh hạ Phúc Thanh Công chúa

  11. Đạt Định phi (达定妃), sinh hạ Tề Cung vương Chu Phù, Đàm vương Chu Tử

  12. Hồ Thuận phi (胡顺妃), sinh hạ Tương Hiến vương Chu Bách

  13. Nhậm Thuận phi (任顺妃), Triều Tiên tiến cống

  14. Lý Hiền phi (李贤妃), sinh hạ Đường Định vương Chu Kính

  15. Lưu Huệ phi (刘惠妃), sinh hạ Dĩnh Tĩnh vương Chu Đống

  16. Cát Lệ phi (葛丽妃), sinh hạ Y Lệ vương Chu Di

  17. Ngạc phi (碽妃), Triều Tiên tiến cống. Có sử gia coi là mẹ đẻ của Minh Thành Tổ

  18. Hàn phi (韩妃), Triều Tiên tiến cống, sinh hạ Liêu Giản vương Chu Thực

  19. Dư phi (余妃), sinh hạ Khánh Tĩnh vương Chu Chiên

  20. Dương phi (杨妃), sinh hạ Ninh Hiến vương Chu Quyền

  21. Chu phi (周妃), sinh hạ Dân Trang vương Chu Biền, Hàn Hiến vương Chu Tùng

  22. Lý Tiệp dư (李婕妤), Triều Tiên tiến cống

  23. Thôi Mỹ nhân (崔美人), Triều Tiên tiến cống

  24. Trương Mỹ nhân (张美人), sắc đẹp mỹ miều, đặc ân không bị tuẫn táng, sinh hạ Bảo Khánh Công chúa, được Từ Hoàng hậu nuôi dưỡng

  25. Cáo thị (郜氏), không phong hiệu, sinh hạ Túc Trang vương Chu Anh

  26. Lâm thị (林氏), không phong hiệu, sinh hạ Nam Khang Công chúa

Con cái[sửa | sửa mã nguồn]


Con trai[sửa | sửa mã nguồn]




































































































































































TTHọ tênTướcSinhMấtMẹGhi chú
1Chu Tiêu
朱標
Ý Văn thái tử
懿文太子
10/10/1355
17/5/1392
Hiếu Từ Cao hoàng hậuLấy con gái của Thường Ngộ Xuân làm Thái tử phi; sau lại lấy con gái của Lã Bản làm kế thất. Lã phi sinh ra con trai là Chu Doãn Văn, được lập làm hoàng thái tôn, sau này lên làm vua, tức Minh Huệ Đế
2Chu Sảng
朱樉
Tần Mẫn vương
秦愍王
3/12/1356
9/4/1395
Hiếu Từ Cao hoàng hậu, có thuyết cho là con của phi tần khác
3Chu Cương
朱棡
Tấn Cung vương
晉恭王
18/12/1358
22/4/1398
Hiếu Từ Cao hoàng hậu, có thuyết cho là con của phi tần khác
4Chu Đệ
朱棣
Yên vương
燕王
2/5/1360
12/8/1424
Hiếu Từ Cao hoàng hậu, có thuyết là con của phi tần khácSau Tĩnh Nan chi dịch thì đoạt ngôi, tức Minh Thành Tổ.
5Chu Túc
朱橚
Chu Định vương (周定王), ban đầu phong là Ngô vương (吳王)8/10/1361
2/9/1425
Hiếu Từ Cao hoàng hậu, có thuyết cho là con của phi tần khác
6Chu Trinh
朱楨
Sở Chiêu vương
楚昭王
5/4/1364
22/3/1424
Hồ Sung phi
7Chu Phù
朱榑
Tề Cung vương
齊恭王
23/12/1364
1428
Đạt Định phibị chết oan
8Chu Tử
朱梓
Đàm vương
潭王
6/10/1369
18/4/1390
Đạt Định phiTự sát trong niên hiệu Hồng Vũ. Lấy con gái của Vu Hiển.
9Chu Kỷ
朱杞
Triệu vương
趙王
10/1369
16/1/1371
không rõChết non
10Chu Đàn
朱檀
Lỗ Hoang vương
魯荒王
15/3/1370
2/1/1390
Quách Ninh phiLấy con gái của Thang Hòa.
Trực hệ của Minh Nghĩa Tông Chu Dĩ Hải nhà Nam Minh
11Chu Xuân
朱椿
Thục Hiến vương
蜀獻王
4/4/1371
1423
Quách Huệ phiLấy con gái của Lam Ngọc.
12Chu Bách
朱柏
Tương Hiến vương
湘獻王
12/9/1371
1399
Hồ Thuận phiTự sát trong niên hiệu Kiến Văn.
13Chu Quế
朱桂
Đại Giản vương (代簡王), ban đầu phong là Dự vương (豫王)25/8/1374
29/12/1446
Quách Huệ phiLấy con gái thứ của Từ Đạt.
14Chu Anh
朱楧
Túc Trang vương (肅莊王), ban đầu phong là Hán vương (漢王)10/10/1376
5/1/1420
Cáo thị
15Chu Thực
朱植
Liêu Giản vương (遼簡王), ban đầu phong là Vệ vương (衛王)24/3/1377
1424
Hàn phi
16Chu Chiên
朱㮵
Khánh Tĩnh vương
慶靖王
6/2/1378
23/8/1438
Dư phiLấy con gái của Tôn Đạt
17Chu Quyền
朱權
Ninh Hiến vương
寧獻王
27/5/1378
1448
Dương phi
18Chu Biền
朱楩
Dân Trang vương
岷莊王
1379
1450
Chu phi

19Chu Huệ
朱橞
Dục vương
谷王
30/4/1379
1428
Quách Huệ phiBị phế làm dân thường trong niên hiệu Vĩnh Lạc
20Chu Tùng
朱松
Hàn Hiến vương
韓憲王
26/6/1380
19/11/1407
Chu phi
21Chu Mô
朱模
Trầm Giản vương
沈簡王
1/9/1380
1431
Triệu Quý phi
22Chu Doanh
朱楹
An Huệ vương
安惠王
18/10/1383
9/10/1417
không rõ
Lấy con gái út của Từ Đạt.
23Chu Kính
朱桱
Đường Định vương
唐定王
11/10/1386
8/9/1415
Lý Hiền phiTrực hệ của 2 anh em Minh Thiệu Tông và Minh Văn Tông nhà Nam Minh
24Chu Đống
朱棟
Dĩnh Tĩnh vương
郢靖王
21/6/1388
14/11/1414
Lưu Huệ phiLấy con gái của Quách Anh
25Chu Di
朱㰘
Y Lệ vương
伊厉王
9/7/1388
8/10/1414
Cát Lệ phi
26Chu Nam
朱楠
không phong vương4/1/1394
1394
không rõ
Chết khi vừa đầy tháng

Con gái[sửa | sửa mã nguồn]




































































































TTTước phongSinh mấtNăm kết hônMẹChồngGhi chú
1Lâm An Công chúa
臨安公主
1360 - 17/8/14211376Thành Mục Quý phiLý Kì (李祺), con trai Lý Thiện Trường (李善長)Tên là Chu Ngọc Phượng (朱玉凤), được Mã Hoàng hậu nuôi dưỡng
2Ninh Quốc Công chúa
寧國公主
1364 - 7/9/14341378Hiếu Từ Cao hoàng hậuMai Ân (梅殷), cháu ruột của Mai Tư Tổ (梅思祖)
3Sùng Ninh Công chúa
崇寧公主
?21/12/1384không rõ
Ngưu Thành (牛城)
4An Khánh Công chúa
安慶公主
?23/12/1381Hiếu Từ Cao hoàng hậuÂu Dương Luân (歐陽倫)
5Nhữ Ninh Công chúa
汝寧公主
?11/6/1382Quách Ninh phiLục Hiền (陸賢), con trai Lục Trọng Hanh (陸仲亨)
6Hoài Khánh Công chúa
懷慶公主
1360 - 15/7/142511/9/1382Thành Mục Quý phiVương Ninh (王寧)Có hai con trai là Vương Trinh Lương (王貞亮) và Vương Trinh Sơn (王貞慶)
7Đại Danh Công chúa
大名公主
1368 - 30/3/14262/9/1382Quách Ninh phiLý Kiên (李堅), con trai Lý Anh (李英)Có một con trai là Lý Trang (李莊)
8Phúc Thanh Công chúa
福清公主
1370 - 28/2/141726/4/1385Trịnh An phiTrương Lân (張麟), con trai Trương Long (張龍)
9Thọ Xuân Công chúa
壽春公主
1370 hoặc 1373 - 1/8/13889/4/1386không rõ
Phó Trung (傅忠), con trai Phó Hữu Đức (傅友德)
10Thập công chúa?
Thành Mục Quý phi
Chết non
11Nam Khang Công chúa
南康公主
1373 - 15/11/14381387Lâm thịHồ Quan (胡觀), con trai Hồ Hải (胡海)Tên là Chu Ngọc Hoa (朱玉华)
12Vĩnh Gia Trinh Ý Công chúa
永嘉貞懿公主
1376 - 12/10/145523/11/1389Quách Huệ phiQuách Trấn (郭鎮), con trai Quách Anh (郭英)
13Thập tam công chúa?
Thành Mục Quý phi
Chết non
14Hàm Sơn Công chúa
含山公主
1381 - 18/10/146211/9/1394Cao Lệ phi Hàn thịDoãn Thanh (尹清)
15Nhữ Dương Công chúa
汝陽公主
?23/8/1394Quách Huệ phiTạ Đạt (謝達)
16Bảo Khánh Công chúa
寶慶公主
1394 - 14331413Trương Mỹ nhânTriệu Huy (趙輝)Được Từ Hoàng hậu nuôi dưỡng

Tả thị xuân thu:Minh Thái Tổ được tiểu thuyết hoá trở thành một nhân vật trong truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung.

Trong truyện này ông là một giáo chúng của Minh giáo, có quen biết sâu sắc với giáo chủ Trương Vô Kỵ và tham gia khởi nghĩa chống quân Mông Cổ. Khi khởi nghĩa sắp thắng lợi ông lập mưu lừa Trương Vô Kỵ từ bỏ ngôi vị giáo chủ, ép giáo chủ tiếp theo là Dương Tiêu từ chức, giết thủ lĩnh, lừa bạn bè. Cuối cùng khi khởi nghĩa thành công, Minh Thái Tổ tự mình lên ngôi hoàng đế, phản bội Minh giáo. Tên gọi "triều Minh" là để gợi nhớ tới xuất thân Minh giáo của ông.





  • Tiêu Lê (2000), Những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, tập 3, Nhà xuất bản Đà Nẵng

  • Nguyễn Hiến Lê (1997) Sử Trung Quốc, Chương VII: Nhà Minh (1368 - 1644)


  1. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 216

  2. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 217

  3. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 219

  4. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 260 - 271

  5. ^ “Entry”. Truy cập 8 tháng 8 năm 2016. 

  6. ^ Dịch Trung Thiên "Luận anh hùng"

  7. ^ a ă Nguyễn Hiến Lê (1997) Sử Trung Quốc, Chương VII: Nhà Minh (1368 - 1644)

  8. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 241

  9. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 250-251

  10. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 278

  11. ^ 明 朱鷺 建文書法儗 前编

  12. ^ a ă 明史 卷五十一 志第二十七 禮五吉禮五 加上諡號


No comments:

Post a Comment