Thursday, October 25, 2018

Từ Hi Thái hậu – Wikipedia tiếng Việt


Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu (chữ Hán: 孝欽顯皇后; tiếng Mãn: ᡥᡳᠶᠣᠣᡧᡠᠩᡤᠠ
ᡤᡳᠩᡤᡠᠵᡳ
ᡳᠯᡝᡨᡠ
ᡥᡡᠸᠠᠩᡥᡝᠣ
,tiếng Mãn Châu:hiyoošungga gingguji iletu hūwangheo,thái thanh:hiyouxungga gingguji iletu hvwangheu; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), tức Từ Hi Thái hậu (慈禧太后) hoặc Tây Thái hậu (西太后), là phi tử của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế, sinh mẫu của Thanh Mục Tông Đồng Trị Đế. Bà trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính thực tế của triều đình Nhà Thanh cùng với Từ An Thái hậu - hoàng hậu của Hàm Phong Đế - khi con trai Đồng Trị Đế lên ngôi. Sau khi Đồng Trị Đế mất, Thanh Đức Tông Quang Tự Đế lên, bà lại tiếp tục giữ vai trò nhiếp chính cùng với Từ An Thái hậu. Theo đó, bà trên đã nắm đại quyền Nhà Thanh trong vòng 47 năm, từ 1861 tới tận khi qua đời năm 1908, trong đó hoàn toàn nắm quyền 27 năm (1881 - 1908) do cái chết của Từ An Thái hậu. Từ Hi Thái hậu cùng với Võ Tắc Thiên thời Đường và Lã hậu thời Hán được xem là những người phụ nữ nắm quyền lực cao nhất của đế quốc Trung Hoa trong một thời gian dài.

Năm 1898, Quang Tự Đế vận động Bách nhật Duy tân, đối với Từ Hi Thái hậu mâu thuẫn gay gắt, thậm chí còn cùng với Khang Hữu Vi bí mật âm mưu ám sát Thái hậu. Biến pháp thất bại, Quang Tự Đế bị giam lỏng, Thái hậu tiếp tục là nhà lãnh đạo tối cao. Khi khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, liên quân 8 nước phương Tây tấn công Trung Quốc, Từ Hi Thái hậu và hoàng tộc phải chạy tới Tây An. Năm 1901, sau khi Hòa ước Tân Sửu được ký kết, bà mới quay trở lại Bắc Kinh. Những năm về sau, Từ Hi Thái hậu tích cực thực hiện nhiều cải cách, chẳng hạn như giải phóng phụ nữ Trung Hoa khỏi tục bó chân[1].

Nhiều nhà sử học ở Trung Quốc và hải ngoại thường miêu tả Từ Hi Thái hậu như một bạo chúa, người phải chịu trách nhiệm cho sự sụp đổ của Nhà Thanh, trong khi một số khác cho rằng các đối thủ của Thái hậu đã quá thành công trong việc quy tội bà về những vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát của bà lúc đó. Và thực tế bà không hề tàn nhẫn hơn hay kém những nhà lãnh đạo khác, nếu không muốn nói đã ít nhiều là một nhà cải cách có hiệu quả - dù miễn cưỡng - trong những năm cuối đời[2].





Hiếu Khâm hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị

Từ Hi Thái hậu sinh ngày 10 tháng 10 (âm lịch) năm Đạo Quang thứ 15, Diệp Hách Na Lạp thị thuộc Mãn châu Tương lam kỳ xuất thân, con cháu nhà quan gia thế tập. Sau thời Trung Hoa Dân quốc, có nhiều học giả nhận định bà ắt hẳn là con cháu Diệp Hách bối lặc Kim Đài Cát, nhưng sự thực hoàn toàn không phải như vậy.

Cứ theo 《Đức Hạ Nột Thế quản tá lĩnh tiếp tập gia phổ》 (德贺讷世管佐领接袭家谱) tại Trung Quốc đệ nhất lịch sử đương án quán (中国第一历史档案馆), thì tổ tiên của bà được gọi là Khách Sơn (喀山), thế cư Tô Hoàn, mang họ Na Lạp thị, cho nên nguyên bản phải được gọi là Tô Hoàn Na Lạp thị (甦完那拉氏) mới chính xác. Mà Tô Hoàn vốn ở trong lãnh thổ Diệp Hách, nên vài đời sau cứ lấy thế cư Diệp Hách, tạo thành ra Diệp Hách Na lạp thị ngộ nhận. Thanh sử cảo viết về bà cũng công nhận bà là hậu nhân của Diệp Hách bộ, dù sắc phong tần phi của bà ghi lại thì bà chỉ được gọi đơn giản là Na Lạp thị mà thôi.

Khách Sơn sau khi nhập kỳ, nhận chức Đô úy, tòng chinh Liêu Đông, lập rất nhiều quân công, dần nhận được Nhất đẳng Nam (一等男) tước hiệu cùng cái chức Quản tá lĩnh (管佐領), hậu duệ thế tập đời đời. Cao tổ phụ Khách Anh A (喀英阿) là huyền tôn của Khách Sơn, thế tập tước Nam tước cùng chức Tá lĩnh. Khách Anh A sinh ra con trưởng Trát Lang A (扎郎阿) cho thế tập tước và chức, còn con thứ hai tên Cát Lang A (吉朗阿) đành phải qua xuất sĩ mà tiến thân, làm đến Viên ngoại lang bộ Hộ, ông chính là tằng tổ phụ của Từ Hi Thái hậu. Cát Lang A cưới Tôn Thất nữ quyến, sinh ra Cảnh Thụy (景瑞), làm đến Lang trung bộ Hình, sau Cảnh Thụy cưới Qua Nhĩ Giai thị, sinh ra hai con, con trưởng Huệ Trưng (惠徵), con thứ Huệ Xuân (惠春).

Phụ thân bà là Huệ Trưng, sơ kì là Bút thiếp chức ở bộ Lại. Ông đang làm việc ở Bắc Kinh vào năm Từ Hi ra đời, dẫn đến một số suy đoán rằng bà cũng được sinh ra tại đó. Năm Hàm Phong thứ 2, Huệ Trưng được phong hàm Tứ phẩm, làm đến An Huy Ninh Trì thái quảng đạo Đạo viên (安徽寧池廣太道道員). Huệ Trưng cưới Phú Sát thị thuộc Mãn châu Tương hoàng kỳ, con gái Phó đô thống Huệ Hiện (惠顯), sinh 3 nam 4 nữ, trong đó Từ Hi Thái hậu là con gái thứ 2, do Phú Sát thị vợ cả sinh ra.

Khoảng những năm 30 niên hiệu Đạo Quang, có vụ án phát sinh ở bộ Hộ, Đạo Quang Đế tiến hành điều tra. Lúc đó Cát Lang A đã từng làm quan Ngân khố Tư viên, nên trách nhiệm đều giáng lên người Cảnh Thụy, không lâu sau Cảnh Thụy bị tống giam. Con trai Cảnh Thụy là Huệ Trưng phải vơ vét tài sản mới cứu được Cảnh Thụy ra ngoài. Đây cũng là kiếp đại nạn đầu tiên trong gia đình bà. Chi Trát Lang A là chi trưởng của Khách Sơn, nhiều đời thế tập tước Nam tước, tuy nhiên vẫn khá có giao du với nhánh của gia đình bà, nên quan hệ toàn gia tương đối không tệ. Điều này minh chứng việc một người cháu dâu của Từ Hi Thái hậu, được gọi là "Nguyên đại nãi nãi" (元大奶奶), theo ghi chép cuối thời Thanh thường xuyên vào cung thăm Thái hậu. Nguyên đại nãi nãi là vợ của Đức Viên (德垣), trực hệ của Trát Lang A, còn trẻ mà mất sớm, nên Nguyên đại nãi nãi còn được gọi là "Viện đại nãi nãi" (垣大奶奶).

Theo đánh giá, gia thế của bà tương đối khá, dù bà là nhánh thứ của gia tộc này. Dẫu vậy, đời của bà tách ra khỏi nhánh đại tông không xa, cho nên tương đối có quyền thế, ông và cha bà vẫn giữ được các chức quan tương đối. Tuy không thể so với đệ nhất thế gia nhưng cũng hơn những nhà bình thường khác.



Năm Hàm Phong thứ 2 (1852), ngày 11 tháng 2 (âm lịch), sau khi vượt qua 60 cô gái cùng tham gia thi tuyển tú nữ. Cùng năm, ngày 9 tháng 5 (âm lịch), Na Lạp thị nhập cung, được sắc phong thành Quý nhân, gọi là Lan Quý nhân (蘭貴人). Trong số những người được chọn còn có Trang Tĩnh Hoàng quý phi Tha Tha Lạp thị, được tấn phong Lệ Quý nhân (麗貴人) và Trinh tần Nữu Hỗ Lộc thị, người sau này là Hiếu Trinh Hiển hoàng hậu.

Năm Hàm Phong thứ 4 (1854), ngày 26 tháng 2 (âm lịch), được tấn phong lên 1 cấp, là Tần, thuộc hàng Chính tứ phẩm. Ngày 25 tháng 11 (âm lịch) cùng năm, lấy Hiệp bạn Đại học sĩ Giả Trinh (贾桢) làm Chính sứ, Lễ bộ Tả Thị lang Túc Thuận (肃顺) làm Phó sứ, hành lễ sách phong Tần, phong hiệu Ý tần (懿嫔). Căn cứ Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用) của Nội vụ phủ, phong hiệu Ý có Mãn văn là 「Fujurungga」, ý là “Đoan trang”, “Văn nhã”, “Có phong thái”.

Năm Hàm Phong thứ 6 (1856), ngày 23 tháng 3 (tức ngày 27 tháng 4 dương lịch), sinh hạ Hoàng trưởng tử Tải Thuần (載淳), con trai duy nhất của Hàm Phong Đế, tức Thanh Mục Tông Đồng Trị hoàng đế sau này. Ngày 24 tháng 3 hôm sau, bà được sắc phong thành Ý phi (懿妃)[3]. Ngày 1 tháng 12 (âm lịch) cùng năm, lấy Đại học sĩ Bành Uẩn Chương (彭蕴章) làm Chính sứ, Lễ bộ Thượng thư Thụy Lân (瑞麟) làm Phó sứ, hành lễ sách phong Phi.

Một năm sau (1857), ngày 2 tháng 1, khi Tiểu hoàng tử gần tròn 1 tuổi, Ý phi Na Lạp thị lại được tấn phong làm Ý Quý phi (懿贵妃). Ngày 13 tháng 12 cùng năm, lấy Nội các đại học sĩ Dụ Thành (裕诚) làm Chính sứ, Đại học sĩ Hoàng Tông Hán (黄宗汉) làm Phó sứ, đem kim sách kim bảo chính thức cử hành đại điển sắc phong. Ý Quý phi lúc ấy có địa vị cao quý chỉ sau Nữu Hỗ Lộc hoàng hậu.

Sách phong viết:




Theo truyền thuyết kể lại, không như những người phụ nữ khác, Từ Hi Thái hậu khi còn là Ý Quý phi nổi tiếng với trí thông minh và khả năng đọc viết thông thạo tiếng Hán. Nhờ vậy, bà có nhiều cơ hội tham gia chính sự khi sức khỏe của Hàm Phong không được tốt. Trong nhiều trường hợp, Hoàng đế để Từ Hi đọc tấu chương và ghi lời phê cho mình, điều này khiến các đại thần đối với Ý Quý phi đã sớm bất mãn[5].



Hàm Phong Đế băng hà[sửa | sửa mã nguồn]


Hai con dấu "Ngự Thưởng""Đồng Đạo đường"

Tháng 9, năm 1860, liên quân Anh - Pháp tấn công Bắc Kinh. Hàm Phong cùng hoàng tộc, trong đó có Ý Quý phi, phải rời Tử Cấm Thành đến Thừa Đức để lánh nạn. Khi nghe tin vườn Viên Minh xa hoa tráng lệ bị liên quân đốt phá, hoàng đế đau buồn khôn xiết. Ngài bắt đầu lạm dụng rượu và thuốc phiện khiến sức khỏe ngày càng suy sụp.

Ngày 22 tháng 8, năm 1861 (tức năm Tân Dậu), Hàm Phong băng hà ở Tị Thử Sơn trang[6]. Người kế vị ông, hoàng tử Tái Thuần, lúc này chỉ mới 5 tuổi. Trước lúc lâm chung, Hàm Phong ban con dấu "Ngự Thưởng" (御赏) cho Nữu Hỗ Lộc Hoàng hậu và con dấu "Đồng Đạo Đường" (同道堂) cho hoàng tử Tái Thuần do mẹ sinh là Ý Quý phi Diệp Hách Na Lạp thị tạm thời bảo quản, với hy vọng cả hai sẽ hợp sức cùng nhau nuôi dạy hoàng đế tương lai khôn lớn. Ông cũng di chiếu lại cho tám vị đại thần bao gồm Di thân vương Tải viên, Trịnh thân vương Đoan hoa, Hộ Bộ Thượng thư Túc thuận, Ngạch phụ Cảnh Thọ, Binh Bộ Thượng thư Mục Ấm, Lại Bộ Tả Thị lang Khuông Nguyên, Lễ Bộ Hữu thị lang Đỗ Hàn, Thái bộc Thiếu Khanh tự Tiêu Hữu Doanh làm phụ chính hỗ trợ cho Tiểu hoàng đế, đương thời gọi Cố mệnh Bát đại thần. Điều này có nghĩa thực quyền sẽ nằm trong tay nhóm tám vị này, khi đó bát đại thần thế lực do Túc Thuận đứng đầu[7]. Ban đầu, niên hiệu của Tân hoàng đế dự định sẽ là Kỳ Tường (祺祥).

Sau khi Hàm Phong hoàng đế qua đời, tân đế Đồng Trị kế vị, Nữu Hỗ Lộc hoàng hậu được tấn tôn làm Mẫu hậu Hoàng thái hậu (母后皇太后), tức Từ An Hoàng thái hậu. Sinh mẫu của Hoàng đế, Ý Quý phi Diệp Hách Na Lạp thị trở thành Hoàng quý thái phi (皇貴太妃), nhưng sau đó một ngày được tôn làm Thánh mẫu Hoàng thái hậu (聖母皇太后). Việc trì hoãn này được cho là bởi sự phản đối của Túc Thuận. Theo phân vị thì Từ Hi vào lúc đó đứng sau Từ An Thái hậu.

Theo Edward Behr, Từ Hi Thái hậu cho rằng hai người đều là phụ nữ, Hoàng đế thì còn nhỏ tuổi, nếu để tám vị đại thần phụ chính ắt không tránh khỏi việc bị chèn ép. Vì vậy, Từ Hi gợi ý với Từ An nên cùng nhau chấp chính, đoạt lấy quyền lực[8]. Từ An vốn an phận thủ thường nhưng vẫn lo lắng cho lộc vị của mình nên đồng ý với kế hoạch của Từ Hi.


Tiến hành đảo chính[sửa | sửa mã nguồn]




Trong lúc chờ ngày lành tháng tốt để đưa di hài của Hàm Phong hoàng đế về Bắc Kinh, quan hệ giữa Lưỡng cung Thái hậu và nhóm của Túc Thuận ngày một xấu đi.

Ngày 14 tháng 9, Sơn Đông Ngự sử Đổng Nguyên Thuần tấu thỉnh hai vị Thái hậu quản lý triều chính nhưng gặp phải sự phản đối của Túc Thuận, bởi Nhà Thanh chưa có tiền lệ Thái hậu buông rèm nhiếp chính. Dưới tình thế đó, Từ Hi Thái hậu càng quyết tâm tiến hành chính biến. Bà âm thầm xây dựng vây cánh cho riêng mình gồm các tướng lĩnh, quan lại, thân vương bất đồng với tám vị đại thần. Trong số này quan trọng nhất là Cung thân vương Dịch Hân và Thuần thân vương Dịch Hoàn, hoàng tử thứ 6 và 7 của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang hoàng đế. Cung thân vương vốn là một người đầy tham vọng nhưng lại bị gạt khỏi vị trí đầu triều sau di chiếu của Hàm Phong hoàng đế nên rất tích cực ủng hộ cuộc đảo chính. Ngoài ra còn có Thị lang Thắng Bảo và Đại học sĩ Giả Trinh.

Khi đoàn xa giá đưa linh cữu của Hàm Phong hoàng đế bắt đầu rời Hà Bắc để về Bắc Kinh, Từ Hi Thái hậu và 2 vị thân vương đã chớp lấy thời cơ để đi trước một bước. Trong khi Túc Thuận và các phụ chính đại thần phải theo hộ giá quan tài của Hàm Phong; Lưỡng cung Thái hậu và tiểu hoàng đế đã được bố trí để về đến Tử Cấm Thành. Việc này cho phép Thái hậu và Cung thân vương có thêm thời gian an bài kế hoạch cũng như củng cố phe cánh của mình. Khi tám phụ chính đại thần về đến Bắc Kinh, họ lập tức bị bắt giam và tước hết chức vị[8].

Cả tám người bị khép tội phản nghịch cùng một loạt tội danh lớn nhỏ khác. Để thể hiện sự khoan dung, Từ Hi chỉ xử tử ba trong số họ. Cung Thân vương cho rằng Túc Thuận và hai người có vị trí cao nhất phải chịu lăng trì, nhưng Từ Hi quyết định Túc Thuận chỉ bị chém đầu, còn hai người kia được tự sát. Sử sách gọi đây là Chính biến Tân Dậu.


Thượng tôn huy hiệu[sửa | sửa mã nguồn]


Năm Đồng Trị nguyên niên (1862), ngày 25 tháng 4 (âm lịch), triều thần định huy hiệu cho Thánh mẫu Hoàng thái hậu là Từ Hi Hoàng thái hậu (慈禧皇太后). Đây chính là lúc bà chính thức có huy hiệu này. Ngày hôm đó, chử chư Vương, Bối lặc, Văn võ đại thần, dâng kim sách thượng tôn huy hiệu[9][10].

Sách tôn viết:





Triều đại mới[sửa | sửa mã nguồn]



Tháng 11 năm 1861, sau khi đã loại bỏ Túc Thuận cùng đồng đảng, Từ Hi Thái hậu cùng Từ An Thái hậu nhanh chóng ban thưởng cho Cung thân vương Dịch Hân.

Cung thân vương Dịch Hân trở thành Nghị chính vương (議政王), đứng đầu Quân cơ xứ và hội đồng nhiếp chính, được gọi là các Quân cơ đại thần (军机大臣). Không những được phong làm Nghị chính vương đứng đầu Quân cơ xứ, con gái của ông cũng được phong là Cố Luân công chúa - tước vị vốn chỉ dành cho trưởng nữ của Hoàng hậu, lương bổng của ông cũng tăng gấp đôi.

Lưỡng cung Thái hậu cũng không vì thế mà muốn mất đi thực quyền, nên đề ra chính sách Lưỡng cung thính chính (兩宮聽政). Do vậy, vào tháng 11 năm ấy, Lưỡng cung Hoàng thái hậu chính thức nghe chính ở Dưỡng Tâm điện (養心殿). Lưỡng cung Thái hậu chính thức Thùy liêm thính chính, trở thành 2 vị Hậu cung đầu tiên và duy nhất nhiếp chính của Nhà Thanh. Từ đây, 2 vị Thái hậu đều triệu các Quân cơ đại thần vào điện nghe chính sự. Quy trình này khá phức tạp, khi dâng tấu chương, 2 vị Thái hậu cùng xem xét, từ Cung thân vương đề nghị thỉnh chỉ, hôm sau Cung thân vương trình tấu sự vụ lên, cả hai Thái hậu cùng xem xét và duyệt định, lấy con dấu Đồng Đạo Đường do chính Từ An Thái hậu ấn lên, rồi lấy danh nghĩa Đồng Trị Đế mà ban phát chỉ dụ. Mọi chỉ dụ đều phải được thông qua bởi cả hai vị Thái hậu. Quy trình này được cho là quá rối ren và máy móc.

Vai trò của Từ Hi Thái hậu cũng như Từ An Thái hậu lúc này chỉ là đóng con dấu của mình lên các sắc chỉ mà thôi. Tuy nhiên, người trực tiếp quản lý con dấu là vị Mẫu hậu Hoàng hậu, chính danh ngôn thuận Từ An Hoàng thái hậu. Vai trò của Từ Hi Thái hậu căn bản là quản lý nội vụ. Cứ theo Thanh cung di văn (清宫遗闻): "Đông Cung trội ở Đức, mà thực sự nắm quản việc đại sự; Tây Cung trội ở Tài, mà việc phê duyệt tấu chương, chi tiệu lợi hại chỉ quản được"[11]. Như vậy có thể thấy, Từ An Thái hậu tuy là người bên ngoài không tham quyền thế, nhưng lại là người nắm những đại quyền. Công việc do Từ Hi Thái hậu xử lý đa phần là những việc lặt vặt, chi tiêu sinh hoạt trong cung, ở những việc trọng đại thì phải thông qua quyết định của Từ An Thái hậu. Ngoài ra, vì Từ An Thái hậu ở vị trí chính cung, bây giờ ở phía Đông Noãn các của Dưỡng Tâm điện, thực lực quá rõ ràng, những việc Từ An Thái hậu thấy không cần nhúng tay vào thì đều để cho Từ Hi Thái hậu nhận lãnh, giải quyết ổn thỏa. Bởi cái đánh giá Từ Hi Thái hậu "tài cán" rốt cục là vì bà xử lý ổn thỏa.


Hạ bệ Cung thân vương[sửa | sửa mã nguồn]


Dưới sự lãnh đạo của Tăng Quốc Phiên, Tương Quân liên tiếp giành thắng lợi và cuối cùng đã tiêu diệt quân Thái Bình sau trận quyết đấu ở Thiên Kinh (Nam Kinh ngày nay) vào tháng 7 năm 1864. Tăng Quốc Phiên được phong Nhất Đẳng Dũng Nhị hầu, hàm Thái Tử Thái Bảo. Em trai của ông là Tăng Quốc Thuyên, cùng với Tả Tông Đường và Lý Hồng Chương, cũng được ban thưởng hậu hĩnh. Năm 1872-1873, lại trấn áp thành công Vân Nam Hồi biến cùng Thiểm Cam Hồi biến. Thế cục hỗn loạn của Nhà Thanh dần dần ổn định, sử xưng Đồng Trị trung hưng.

Với mối họa Thái Bình Thiên Quốc được dẹp bỏ, Từ Hi Thái hậu mới có thể bắt tay vào việc củng cố quyền lực của mình ở trung ương. Mối lưu tâm hàng đầu lúc đó không khác hơn là vị thế của Cung thân vương Dịch Hân, người đang đứng đầu hội đồng Quân cơ xứ. Mặc dù đã sát cánh cùng Từ Hi trong cuộc đảo chính Tân Dậu, cũng như có công tiến cử Tăng Quốc Phiên, nhưng ảnh hưởng và uy tín của ông trong triều đình phần nào hạn chế quyền quyết định tối cao của Từ Hi, đặc biệt là Cung thân vương luôn dùng Từ An Thái hậu để trấn áp, bức chế Từ Hi Thái hậu, khiến Từ Hi nhiều lần bị gạt ra khỏi chính sự.

Năm 1865, Từ Hi Thái hậu xuống dụ yêu cầu Cung thân vương tự nguyện rút lui khỏi một số vị trí của mình. Vốn đã xây dựng cho mình một phe cánh hùng hậu, ông không lưu tâm đến chỉ dụ đó. Từ Hi lập tức lấy đây làm lý do buộc ông phải bãi nhiệm. Tháng 4 cùng năm, Cung thân vương bị khép tội "không tôn trọng Lưỡng cung thái hậu" cùng một loạt cáo trạng khác. Ông bị tước hết chức vị, tuy vẫn được phép giữ lại danh hiệu Cung thân vương.

Sự kiện này khiến triều đình Nhà Thanh rúng động. Nhiều người đã gửi tấu chương kiến nghị phục chức cho Cung thân vương. Bản thân Cung thân vương, khi đối chất trước 2 vị thái hậu, thậm chí đã không cầm được nước mắt. Từ Hi đành phải phục chức cho ông làm ngoại vụ sứ, tuy nhiên vẫn không cho phép ông trở về vị trí lãnh đạo nội các. Cung thân vương không bao giờ lấy lại vị thế trước kia một lần nữa. Việc hạ bệ Cung thân vương chỉ sau chưa đầy 4 năm nắm quyền là minh chứng cho sự sắt đá của Từ Hi, không bao giờ cho phép ai chia sẻ quyền lực tuyệt đối với mình, kể cả đó là đồng minh thân cận nhất.


Cuộc vận động tự cường (1862-1882)[sửa | sửa mã nguồn]


Trước chiến tranh nha phiến, Mãn Thanh tự hào là Thiên triều, xem thường các nước Tây phương là ngoại di. Sau khi liên quân Anh–Pháp tới Bắc Kinh, buộc phải ký điều ước nhục nhã với họ, Nhà Thanh mới chịu nhận rằng bọn ngoại di đó mạnh hơn mình nhiều, và muốn chống cự với họ thì phải có tàu bè như họ, súng ống như họ, quân đội phải luyện tập theo lối của họ. Vài người Mãn như Cung thân vương, Quế Lương nghĩ đến việc tự cường, bàn với Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương và Tả Tông Đường. Họ đồng ý với nhau rằng "muốn tự cường thì việc luyện binh là quan trọng nhất, mà muốn luyện binh thì trước hết phải chế tạo vũ khí giới". Năm 1862, họ giao cho Lý Hồng Chương thi hành.

Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương tiếp xúc với Ung Wing, một sinh viên nghèo ở Ma Cao và là du học sinh đầu tiên ở Mỹ, do một hội truyền giáo trợ cấp, năm 1854 đậu bằng cấp Đại học Yale. Tăng Quốc Phiên phái Ung Wing qua Mỹ mua máy. Ông này thuyết phục Tăng Quốc Phiên gởi 120 thanh niên đi du học. Một số lớn qua Mỹ, ba chục người sang Anh, ba chục qua Pháp, một số nhỏ qua Đức.

Phong trào tự cường ngay lập tức gặp nhiều trở ngại. Quân đội Trung Quốc đang rất bức thiết cần một cuộc cải cách toàn diện và sâu rộng. Với sự cố vấn của các quan, Từ Hi cho mua bốn tàu chiến từ Anh. Tuy nhiên, những chiến hạm này khi về tới Trung Quốc đã chở theo toàn thủy thủ Anh quốc và chỉ tuân lệnh của chính phủ Anh. Cảm thấy bị xúc phạm, cuộc mua bán lập tức chấm dứt và Trung Quốc gửi trả tất cả tàu chiến về Anh. Một số học giả lấy ví dụ này để lập luận, tuy Từ Hi Thái hậu đã có cái nhìn cởi mở hơn đối với các vấn đề đối ngoại so với các triều vua trước đó, nhưng nhìn chung bà vẫn là người bảo thủ với không nhiều kiến thức về tình hình quốc tế. Ngoài ra, vì cho rằng sự ồn ào của tàu hỏa sẽ "ảnh hưởng đến giấc ngủ của tiên đế", Từ Hi đã cho hoãn thi công các tuyến đường sắt. Thậm chí khi hoạt động xây dựng được khôi phục lại năm 1877 dưới sự gợi ý của Lý Hồng Chương, Từ Hi đã hỏi tàu hỏa có phải do ngựa kéo không,[12] chứng tỏ bà không phải là người hiểu rõ về các tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như tác dụng của chúng. Từ Hi còn đặc biệt cảnh giác với các tư tưởng bình đẳng, tự do của những người du học phương Tây trở về và coi đó là mối đe dọa với sự thống trị của mình. Năm 1881, Từ Hi Thái hậu cho dừng việc gửi du học sinh ra nước ngoài.


Hôn nhân của Đồng Trị Đế[sửa | sửa mã nguồn]


Đồng Trị Đế ngay từ nhỏ nhận được một sự giáo dục nghiêm khắc của sư trưởng Miên Du và 4 sư phó nổi tiếng do đích thân Từ Hi Thái hậu tuyển chọn. Những người này cố gắng nhồi nhét cho hoàng đế đủ loại kinh sách, từ bài học trị dân trị nước đến đạo làm người. Sức ép lớn từ việc học tập cũng như kỳ vọng cao của Từ Hi càng khiến Đồng Trị thêm chán nản và lười biếng. Theo cuốn nhật ký của Ông Đồng Hòa - con trai một vị sư phó của Đồng Trị - thì hoàng đế không thể đọc nổi một bản tấu chương dù đã 16 tuổi. Từ Hi Thái hậu thấy thế thì càng thúc ép ông nhiều hơn. Tuy vậy, cho đến tận khi tự mình chấp chính vào tháng 11 năm 1873, Đồng Trị vẫn tỏ ra là một vị hoàng đế thiếu năng lực.

Trước đó, khoảng năm 1872, Đồng Trị hoàng đế tròn 17 tuổi. Với sự ủng hộ của Từ An Thái hậu, ông chọn Mông Cổ quý tộc nữ A Lỗ Đặc thị làm Hoàng hậu. Ông của A Lỗ Đặc thị, Đoan Hoa, là một trong tám phụ chính đại thần bị Từ Hi Thái hậu thanh trừng trong cuộc đảo chính Tân Dậu. Thêm vào đó, Từ Hi cho rằng năm sinh của hoàng hậu (Dần) xung khắc với năm sinh của bản thân (Mùi) và luôn lo sợ một ngày mình sẽ bị hãm hại dưới tay hoàng hậu (cọp ăn thịt dê). Chính vì vậy, mối quan hệ giữa Từ Hi và vị tân hoàng hậu ngay từ đầu đã không hề êm đẹp.

Mặc dù được cả Đồng Trị và Từ An Thái hậu yêu mến, nhiều thân cận của A Lỗ Đặc thị vẫn khuyên Hoàng hậu nên thường xuyên vấn an và kết thân với Từ Hi Thái hậu bởi bà mới chính là người nắm thực quyền trong cung. Tuy vậy hoàng hậu tỏ ra coi thường: "Tây thái hậu xuất thân chỉ là một phi tần, nhập cung qua cửa bên. Còn ta là chính cung hoàng hậu, được kiệu vào cung qua Đại Thanh môn với lễ đại hôn theo đúng di huấn của tổ tiên."

Đồng Trị dành nhiều thời gian ở bên hoàng hậu hơn bất cứ phi tần nào khác, trong đó có Huệ phi - người Từ Hi vốn muốn lập làm hoàng hậu. Hiểu rõ thân phận của phi tần khi hoàng thượng chỉ độc sủng một người, Từ Hi xuống chỉ yêu cầu Đồng Trị nên đối xử công bằng với các thê thiếp khác trong hậu cung, đồng thời sai thái giám theo dõi nhất cử nhất động của ông. Khi thấy Đồng Trị phớt lờ chỉ dụ này, Từ Hi Thái hậu nổi giận cấm Đế-Hậu tiếp xúc với nhau. Trái với mong muốn của thái hậu, Đồng Trị vẫn không sủng hạnh bất kỳ phi tần nào khác mà chỉ ở một mình trong cung Càn Thanh.

Vị hoàng đế trẻ nhanh chóng cảm thấy buồn chán và cô độc. Ngài thường trừng phạt nô tỳ bằng những hình phạt tàn khốc dù họ chỉ phạm những lỗi nhỏ. Sau đó, với sự hỗ trợ của một số tiểu thái giám và bạn thân là Tải Chính (con trai của Cung thân vương), Đồng Trị đã tìm cách trốn khỏi Tử Cấm Thành. Nhà vua thường cải trang thành thảo dân và đến tìm vui trong các kỹ viện ở Bắc Kinh. Những cuộc vui chơi của hoàng đế thường xuyên đến nỗi nhiều người đã biết đến nó và trong cung bắt đầu lan truyền nhiều lời đàm tiếu.


Đồng Trị Đế băng hà[sửa | sửa mã nguồn]


Trong thời kỳ trị vì ngắn ngủi của mình, Đồng Trị đã có 2 quyết định quan trọng. Một trong số đó là ra lệnh xây dựng lại cung điện mùa hè, vốn đã bị liên quân Anh - Pháp phá hủy trong Chiến tranh nha phiến lần 2, để dâng lên Từ An và Từ Hi Thái hậu. Một số sử gia nhận xét đây chỉ là cái cớ để Đồng Trị đẩy Từ Hi ra khỏi Tử Cấm Thành, tạo điều kiện cho ông có thể độc lập quyết định chuyện hậu cung. Tuy nhiên, việc thi công gặp trở ngại do quốc khố đã khánh kiệt sau nhiều binh biến. Đồng Trị đành phải kêu gọi bá quan văn võ góp tiền túi, đồng thời mỗi tháng đều đích thân vi hành giám sát thi công trong nhiều ngày, thực ra là để thỏa thích vui chơi ngoài kinh thành.

Không hài lòng vì hoàng đế bỏ bê triều chính, Cung thân vương, Thuần thân vương cùng nhiều quan chức đã gửi tấu chương yêu cầu chấm dứt việc xây dựng cung điện mùa hè, bên cạnh một số yêu sách khác. Tức giận, Đồng Trị quyết định cách chức Dịch Hân và thu hồi tước vị thân vương của ông. Ngày tiếp theo, tất cả các quan có tên trong bản tấu lần lượt bị bãi chức. Được cấp báo, Từ An và Từ Hi lập tức xuất hiện giữa phiên triều. Hai bà quở trách Đồng Trị vì hành xử thiếu suy nghĩ, đồng thời yêu cầu ông thu hồi các sắc chỉ đã ban. Từ Hi nói rằng: "Nếu không có Cung thân vương thì làm sao mẹ con ta có được ngày hôm nay."

Cảm thấy thất bại và bất lực trong việc điều hành quốc gia theo ý mình, Đồng Trị lại đi tìm vui nơi lầu xanh. Huyền sử cho rằng trong một lần như vậy, hoàng đế đã mắc bệnh giang mai. Tuy nhiên, các thái y tuyên bố ông bị đậu mùa. Chỉ sau một vài tuần lâm bệnh, Đồng Trị Đế qua đời ngày 13 tháng 1 năm 1875. Dựa trên góc nhìn của y học hiện đại, bệnh giang mai không thể gây ra cái chết nhanh chóng đến vậy. Do đó, các sử gia tin rằng Đồng Trị thực sự đã mất vì bệnh đậu. Hai tháng sau khi ông mất, Hiếu Triết Nghị hoàng hậu cũng bị ép phải tự sát. Từ Hi Thái hậu một lần nữa quay trở lại chính trường.



Bệnh tật và các thách thức mới[sửa | sửa mã nguồn]



Việc Đồng Trị Đế qua đời mà không có con nối dõi đặt triều đình vào tình thế khó xử. Từ Hi Thái hậu và Từ An Thái hậu không thể chọn một vị thân vương thuộc thế hệ trước để kế vị, vì điều này sẽ khiến cả hai người mất đi quyền lực đang nắm giữ. Vì vậy, tân hoàng đế phải thuộc cùng thế hệ hoặc nhỏ hơn Đồng Trị Đế. Sau nhiều tranh cãi giữa 2 Thái hậu, đứa trẻ 4 tuổi Tải Điềm, con trai đầu của Thuần thân vương Dịch Hoàn và em gái của Từ Hi Thái hậu, đã được chọn để truyền ngôi.

Năm 1875, tức Quang Tự nguyên niên, Tải Điềm được đưa vào Tử Cấm Thành và không bao giờ trở về gia đình của mình nữa. Từ Hi Thái hậu ép Quang Tự Đế gọi Từ An Thái hậu là Hoàng ngạch nương (tức mẫu hậu), còn gọi mình là Thân ba ba (親爸爸 - tức cha đẻ) với mục đích xác lập vị trí trụ cột cho bản thân.[13]. Quang Tự Đế bắt đầu việc học hành khi lên 5 tuổi dưới sự hướng dẫn của Ông Đồng Hòa, người sau này trở thành bạn thân và một vị đại thần tin cẩn của nhà vua.

Một thời gian ngắn sau khi chọn Quang Tự để kế vị, Từ Hi Thái hậu lại lâm bệnh nặng[14] khiến Từ An phải một mình điều hành chính sự.[15] Bà cũng ít khi có điều kiện tiếp xúc với Quang Tự trong giai đoạn này. 

Tháng 4 năm 1881, Từ An Thái hậu đột ngột qua đời. Mặc dù trẻ hơn Từ Hi 2 tuổi, nhưng với địa vị chí Trung cung Hoàng hậu của Hàm Phong Đế, Từ An Thái hậu là người quyết định hầu hết các vấn đề trong nội bộ hoàng tộc. Một số giả thuyết cho rằng đã có sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa 2 vị Thái hậu sau khi Từ An Thái hậu chém đầu thái giám thân cận của Từ Hi là An Đức Hải. Ngoài ra, nhiều người tin rằng Từ An Thái hậu nắm trong tay một mật chỉ của Hàm Phong, cho phép phế truất Từ Hi trong trường hợp bà quá lạm dụng quyền lực. Vì vậy, Từ Hi đã đầu độc Từ An.[16] Do thiếu nhiều bằng chứng nên các nhà sử học vẫn chưa thống nhất về câu chuyện này. Ý kiến chính thống cho rằng Từ An đã qua đời sau một cơn đột quỵ. 

Từ năm 1881 tới 1883, Từ Hi chủ yếu trao đổi với các đại thần qua văn bản.[17] Thêm vào đó, Quang Tự cũng vài lần buộc thiết triều mà không có Từ Hi thính chính.

Cung thân vương, người đã từng nắm giữ vị trí lãnh đạo triều đình, cảm thấy thất vọng bởi sự chuyên quyền của Từ Hi. Ông tự mình quyết định nhiều vấn đề, trong đó đỉnh cao là tuyên chiến với Pháp, dẫn đến chiến tranh Pháp - Thanh mà Trung Quốc là kẻ bại trận. Nhân cơ hội này, Từ Hi loại bỏ Cung thân vương và những người ủng hộ ông trong Quân Cơ Xứ. Thái hậu giáng Cung thân vương xuống chức cố vấn, thay thế ông bởi Thuần thân vương Dịch Hoàn - cha ruột của Quang Tự. Dịch Hoàn sau đó được bổ nhiệm vào một số vị trí quan trọng khác, trong đó có Đô đốc hải quân. Với nỗ lực chứng tỏ sự trung thành và để bảo vệ con trai của mình đang ở bên Từ Hi, ông đã quyết định dùng số tiền nâng cấp hải quân để xây dựng Di Hòa Viên làm nơi Từ Hi an dưỡng tuổi già. Dịch Hoàn không muốn bi kịch của Đồng Trị lặp lại khi Quang Tự tới tuổi trưởng thành.

Năm Quang Tự thứ 10, Trữ Tú cung được trùng tu quy mô lớn, nối với Dực Khôn cung ở phía Nam vào làm một. Từ Hi Thái hậu dọn từ Trường Xuân cung sang ở cung điện mới này để tỏ rõ danh phận của mình.

Theo nguyên tắc, Quang Tự Đế bắt đầu được cai trị độc lập khi lên 16 tuổi. Năm 1887, Từ Hi Thái hậu ra chỉ dụ tổ chức lễ đăng quang cho hoàng thượng. Tuy nhiên các quan đại thần sợ uy danh của Từ Hi nên lên tiếng hoàng đế vẫn còn quá trẻ, và thái hậu nên tiếp tục nhiếp chính. Sư Đạc, Dịch Hoàn, Ông Đồng Hòa, với những động cơ khác nhau, lần lượt dâng sớ đề nghị lễ đăng quang được dời lại. Từ Hi chấp nhận lời thỉnh cầu và ra một chỉ dụ mới tuyên bố bà sẽ tiếp tục phụ chính cho Quang Tự. Dù vậy, Quang Tự ngày một trưởng thành và dần đảm đương nhiều trọng trách trong triều đình. Năm 1886, hoàng đế đã tự mình phê chuẩn nhiều tấu chương. Từ năm 1887, Quang Tự bắt đầu ra nhiều quyết định hệ trọng dưới sự đôn đốc của Từ Hi.[18]


Hôn sự của Quang Tự Đế[sửa | sửa mã nguồn]



Năm 1889, Quang Tự đã 18 tuổi, có thể coi là già trong truyền thống cưới hỏi của cung đình Trung Hoa. Trong năm này, một vụ hỏa hoạn đã xảy ra ở Thái Hòa môn trong Tử Cấm Thành, cùng với hàng loạt thiên tai, mất mùa trong những năm trước đó đã làm dấy lên nghi ngại rằng thiên mệnh của Nhà Thanh đang mất. Từ Hi bắt đầu nghĩ đến chuyện lập hậu cho nhà vua và để ông cai trị độc lập. Từ Hi Thái hậu chọn cháu gái của mình là Diệp Hách Na lạp-Tĩnh Phân, cũng là chị họ của Quang Tự Đế, cho vị trí Hoàng hậu. Quang Tự không thích Tĩnh Phân vì dung mạo quá tầm thường, song đành phải đồng ý vì Từ Hi nhiều lần khuyên:

"Lấy vợ chọn đức, lấy thiếp chọn sắc. Hoàng hậu quá xinh đẹp sẽ là mối nguy từ việc hoàng đế đắm chìm vào nữ sắc và hậu cung sóng gió vì ghen tuông. Khi xưa Từ An Hoàng Hậu nhan sắc thua ta mấy phần được phong mẫu nghi thiên hạ, quản tốt hậu cung, ai nấy đều kính nể".

Bên cạnh hoàng hậu, bà cũng chọn hai chị em Tha Tha lạp thị, tức Cẩn phi và Trân phi cho Hoàng đế. Quang Tự Đế sau đó sủng ái Trân phi hơn cả Hoàng hậu. Từ Hi ban đầu cũng yêu thích Trân Phi, mời thầy dạy vẽ tranh và thư pháp cho Trân Phi học, nhưng Trân Phi ở Cảnh Nhân Cung tiêu xài lãng phí và tỏ ra kiêu ngạo do được đắc sủng khiến bà không hài lòng. Năm 1894, Từ Hi kết tội Trân Phi làm hoàng thượng sao nhãng việc triều chính nên đã truất phế và giam vào lãnh cung. Chị gái của bà là Cẩn Phi chịu số phận tương tự, chưa kể một người anh bà con của họ cũng bị Từ Hi bãi chức.[19] Sau Trân Phi bị Từ Hi sai Lý Liên Anh xô xuống giếng, lấy đá lấp thủ cấp, còn Cẩn Phi trước giờ an phận thủ thường, giữ đúng lễ nghĩa với hoàng hậu và thái hậu nên được tha.


Rút lui vào hậu trường[sửa | sửa mã nguồn]



Ngày 5 tháng 3 năm 1889, Từ Hi Thái hậu tuyên bố rút lui khỏi chuyện triều chính.

Với tư cách là người đứng đầu hoàng gia, Thái hậu vẫn thường xuyên ban thưởng cho các đại thần và còn mời họ vào hoàng cung xem Kinh kịch. Những người này tỏ ra trung thành với Từ Hi hơn là với đương kim hoàng đế. Ngay cả khi Từ Hi đã lui về nghỉ ở Di Hòa Viên, Quang Tự và bá quan vẫn phải thường xuyên lui tới vấn an bà. Chính qua những lần thăm hỏi này mà các vấn đề quốc gia đại sự sẽ được quyết định với sự can thiệp của thái hậu. Ông Đồng Hòa nhận xét, Quang Tự chỉ có thể tự mình giải quyết các tấu chương lặt vặt thường ngày, trong khi Quân Cơ Xứ cố vấn nhà vua khi gặp phải các vấn đề quan trọng hơn. Còn với những trường hợp đặc biệt quan trọng, họ vẫn phải xin ý kiến của Từ Hi Thái hậu[20]

Ý kiến của thái hậu luôn mang tính quyết định và hoàn toàn lất át hoàng đế trong các buổi nghị chính. Năm 1894, chiến tranh Trung - Nhật bùng nổ. Quang Tự vốn thiếu kinh nghiệm chính trị lẫn quân sự nên triều đình phải quay sang nhận chỉ đạo của thái hậu. Tuy nói là đã rút lui vào hậu trường nhưng vai trò của Từ Hi thực tế không hề thua kém so với trước kia.

Năm 1895 là đại thọ thứ 60 của Từ Hi. Dựa trên các lễ đại thọ lần thứ 70 và 80 tổ chức cho Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu - mẹ của vua Càn Long - Từ Hi dự định tổ chức một buổi lễ xa hoa bao gồm trang trí trục đường nối liền Di Hòa Viên và Tử Cấm Thành, biểu diễn văn nghệ miễn phí cho bá tánh, đồng thời đại xá thiên hạ.[21]

Tuy nhiên, chiến tranh Trung Nhật kéo dài buộc Từ Hi phải từ bỏ kế hoạch này và chỉ tổ chức một buổi lễ nhỏ ở trong cung.


Bách nhật duy tân[sửa | sửa mã nguồn]


Từ Hi Thái hậu và Quang Tự Đế đang quỳ. Tranh vẽ bởi Katharine Carl.

Sau vụ Thanh Nhật chiến tranh, thấy một nước lớn như Trung Quốc mà bị một nước nhỏ xưa nay mình vẫn khinh khi là Nhật Bản đánh thua, người Trung Hoa nhận ra rằng công cuộc tự cường hơn hai chục năm không có kết quả gì cả, vũ khí không đủ để cứu nước, phải cải cách từ gốc, thay đổi chế độ, như Vương Thao đã cảnh cáo thì mới được. Họ cổ vũ canh tân chính trị, tổ chức lại điều đình, giảm phung phí trong xã hội, bỏ hệ thống khoa cử cũ, tuyển nhân tài theo cách mới. Do đó mà có cuộc vận động duy tân (đổi mới) khắp trong nước. Các tài liệu lịch sử gọi sự kiện này là Mậu Tuất biến pháp (戊戌变法; 1898) hay Bách nhật Duy tân (百日維新 - 100 ngày cải cách).

Hai người đề xướng là Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, đưa ra khẩu hiệu là "toàn biến, tốc biến" (thay đổi triệt để và mau). Lương Khải Siêu làm đại biểu cho một nhóm 190 cử nhân Quảng Đông lên kinh thi, dâng thư lên triều đình bàn về thời cuộc. Khang Hữu Vi cùng nhóm 1,300 cử nhân khác dâng thư xin biến pháp. Rồi hai nhóm họp làm một. Kể từ thế kỷ XII đời Nam Tống (trên bảy thế kỷ), bây giờ mới lại thấy một phong trào học sinh dâng thỉnh nguyện lên vua. Lần này, thỉnh nguyện của nhóm Khang, Lương không được chấp nhận.

Năm 1896, Khang Hữu Vi lần nữa dâng thư xin biến pháp. Lần này ông đạt được đến Quang Tự qua Ông Đồng Hòa, thầy dạy cũ của Quang Tự.

Quang Tự lúc này đang tự mình nắm quyền. Từ Hi Thái hậu lui về nghỉ ở Di Hòa Viên, dĩ nhiên vẫn theo dõi hành động của ông. Quang Tự tuy e sợ thế lực của Từ Hi nhưng nhiệt tâm muốn cải cách nên cho mời Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lên kinh bàn việc. Ông tiếp Khang, Lương suốt một buổi, phong cho họ chức tước để cùng mưu việc biến pháp. Đề nghị nào họ đưa ra Quang Tự cũng chấp nhận: cải cách việc triều đình cho mới mẻ, bỏ lối văn bát cổ trong các khoa thi mà lấy môn luận về thời vụ thay vào, lập học hiệu, khuyến khích kẻ viết sách mới và kẻ chế khí cụ mới, bỏ những nha thự ít việc, luyện tập quân đội theo lối mới, trù lập ngân hàng, làm đường xe lửa, khai mỏ, mở nông và công nghiệp, lập hội buôn, mỏ rộng đường ngôn luận, cầu nhân tài...

Trong khoảng chưa đầy ba tháng, hơn một trăm đạo chiếu được ban ra, làm cho cả trong triều lẫn ngoài tỉnh xôn xao. Những thay đổi này là quá đột ngột đối với tình hình xã hội nói chung của Trung Quốc. Ngoài ra, duy tân tiến hành mà không có chính sách và chủ trương cụ thể. Quang Tự nghe Khang Hữu Vi gợi ý gì thì nghe đó, Khang Hữu Vi thì thấy các nước Âu - Nhật làm sao thì làm y như vậy mà thiếu sự cân nhắc cho phù hợp với hoàn cảnh đặc thù của đất nước. Bên cạnh đó, có một số ý kiến nghi ngờ vai trò của Nhật Bản trong việc lợi dụng sự cả tin của Quang Tự và Khang Hữu Vi để làm lệch hướng cuộc biến pháp theo hướng có lợi cho Nhật.[22]

Khang Hữu Vi biết rằng nhóm cựu thần tất phản đối, nên khuyên vua đừng vội bỏ hết các nha môn, mà giữ họ lại, phong đất cho họ để không mất lộc. Nhưng Từ Hi hay biết, liền bổ nhiệm một người cùng phe là Vinh Lộc, tổng đốc Trực Lệ, chỉ huy quân đội ở thủ đô để củng cố thế lực của bà. Vua Quang Tự cương quyết, bảo: "Không cho ra biến pháp thì giết ta còn hơn". Đàm Tự Đồng thấy Từ Hi cản trở công cuộc đổi mới, khuyên Quang Tự đoạt lại chính quyền. Quang Tự nghe lời, triệu Viên Thế Khải, (học trò của Lý Hồng Chương trong việc đào tạo quân đội) lúc đó đang thống lĩnh 7.000 quân tâm phúc, về Bắc Kinh bàn việc, có ý dùng quân của Viên để bao vây Di Hòa Viên. Thậm chí Khang Hữu Vi còn có ý định ám sát Từ Hi.

Chẳng may sự việc bị tiết lộ do sự phản bội của Viên Thế Khải. Từ Hi vội vàng từ Di Hòa Viên trở về Bắc Kinh, họp Quang Tự và các đại thần lại, bắt Quang Tự quỳ một bên, các đại thần quỳ một bên, trừng mắt, lớn tiếng mắng Quang Tự rồi quay sang phía các đại thần mắng là bất lực, không tận tâm với quốc sự... Từ Hi sau đó đem hoàng đế giam lỏng ở Doanh Đài, đồng thời tuyên bố ông bị bệnh, không thể tiếp tục việc triều chính. Sự trị vì của Quang Tự đến đây cơ bản là chấm dứt.

Khang Hữu Vi hay tin trước, bỏ trốn. Lương Khải Siêu, sau khi việc xảy ra, mới trốn qua Nhật. Đàm Tự Đồng không chịu trốn, muốn lấy máu mình nuôi cách mạng, nên bị giết với năm người nữa: Khang Quảng Nhân, (em Khang Hữu Vi) Lưu Quang Đệ, Lâm Húc, Dương Nhuệ, Dương Thâm Tú. Khang Hữu Vi ở Nhật lập đảng Bảo hoàng mong lật đổ Từ Hi, phò trợ Quang Tự lên cầm quyền; Lương Khải Siêu còn xuất bản tờ báo "Thanh Nghị" mạt sát Từ Hi.


Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn[sửa | sửa mã nguồn]


Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn

Năm 1900, phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ ở miền Bắc Trung Quốc.

Tôn chỉ của phong trào là chống lại sự bành trướng thế lực nước ngoài trong các lĩnh vực giao thương, chính trị, văn hóa, công nghệ, và Thiên chúa giáo. Chính quyền của Từ Hi Thái hậu, vốn đã ác cảm với phương Tây, ban đầu tỏ ra ủng hộ phong trào. Quân đội triều đình đình đứng về phía các thành viên Nghĩa Hòa Đoàn tiêu diệt khoảng 2,000 binh lính và hàng trăm dân thường ngoại quốc. Các nhà ngoại giao, tướng lĩnh, thường dân nước ngoài cũng như một vài tín đồ Cơ Đốc Giáo người Hoa phải rút lui tới các tòa công sứ và cầm cự 55 ngày cho đến khi 8 nước gửi 20,000 quân tới giải cứu. Liên quân đánh bại quân chính quy Nhà Thanh, chiếm đóng Bắc Kinh ngày 14 tháng 8, giải vây khu lãnh sự. Tiếp đó liên quân cướp phá Bắc Kinh và các khu vực lân cận, hành quyết các tù binh tình nghi là thành viên Nghĩa Hòa Đoàn bị bắt.

Bắc Kinh thất thủ, cả hoàng tộc và bá quan văn võ phải rời Tử Cấm Thành đến Tây An lánh nạn. Liên quân 8 nước sau đó gửi một loạt yêu sách tới Từ Hi Thái hậu và Quang Tự Đế. Rất nhiều quan đại thần kiến nghị triều đình nên tiếp tục cuộc chiến chống ngoại quốc. Tuy nhiên Từ Hi Thái hậu đã nhận ra sai lầm khi khiêu khích các liệt cường phương Tây. Bà hiểu rõ Nghĩa Hòa Đoàn hay quân đội yếu ớt của triều đình không có cơ hội chiến thắng liên quân hùng hậu cùng trang thiết bị hiện đại của họ. Thêm vào đó, Liên quân cam kết tiếp tục để Nhà Thanh cai trị Trung Quốc (thực ra phải là hạn chế tối đa sự can thiệp bởi họ cần một chính quyền đủ mạnh để đàn áp các tư tưởng bài ngoại khác trong tương lai, cũng như đủ yếu ớt để dễ bề thao túng). Hoàng đế Trung Hoa vẫn là lãnh đạo tối cao của một nước Trung Quốc độc lập. Để tránh đổ máu vô ích, Từ Hi Thái hậu liền gửi Lý Hồng Chương - thuyết khách số một của mình - đi đàm phán.

Năm 1901, hòa ước Tân Sửu được ký kết. Triều đình cam kết duy trì sự hiện diện của phương Tây ở Bắc Kinh, mở cửa tất cả thương cảng của mình cho người nước ngoài tự do buôn bán, đồng thời phải bồi thường chiến phí 450 triệu lượng bạc (tương đương với 67 triệu bảng Anh và bằng một năm thu nhập của triều đình).

Trong số các nước đế quốc nhận bồi thường thì Hoa Kỳ dùng phần bồi thường của mình để lập ra trường Đại học Thanh Hoa ngày nay. Ngoài ra, Nhà Thanh còn phải cử Thân vương và đại thần sang Đức và Nhật bày tỏ hối tiếc, bắt giam và xử tử những kẻ chủ chiến, mở rộng thêm 1200 mẫu đất cho các đế quốc lập tô giới và để các đế quốc lập đội quân đồn trú trong 12 địa điểm từ kinh sư tới biển. Những nơi nào trước đây có sự ngược đãi người nước ngoài thì phải cấm thi trong 5 năm, nếu còn tổ chức thi cử thì quan lại địa phương sẽ bị cắt chức ngay. 18 tháng sau khi điều ước được ký kết, Từ Hi và Quang Tự mới về lại Bắc Kinh.


Dự bị lập hiến[sửa | sửa mã nguồn]


Tháng 1 năm 1902, sau hòa ước Tân Sửu, Từ Hi, Quang Tự cùng triều thần trở về Bắc Kinh với một nghi lễ long trọng. Xa giá đi từ Tây An đến phủ Chính Định (正定) thì chuyển lên một đoàn tàu hỏa gồm 21 toa chạy thẳng về Bắc Kinh.[23] Khi đến kinh thành, sứ thần các nước cũng như dân chúng đổ ra xem các thành viên trong hoàng tộc.[24]

Về đến Tử Cấm Thành, Từ Hi quyết định sửa đổi chính sách, một số sắc lệnh biến pháp của Quang Tự mà năm 1898 bà hủy bỏ thì bây giờ được lấy ra thực hiện, lại lập nhiều cơ quan mới như hội nghị chính vụ xứ, thượng bộ, học bộ, luyện tân quân, chấn hưng công, thương.

Năm 1905, dân Trung Hoa thấy Nhật theo chế độ quân chủ lập hiến mà mạnh, thắng được Nga theo chế độ quân chủ chuyên chế, nên càng tin ở chế độ lập hiến, và đòi Thanh đình phải lập hiến, chứ chỉ sửa đổi chính sách (Thanh đình gọi là Tân Chính: Chính sách mới) chỉ duy tân thì không đủ. Ngay một số đại thần Hán trung với Thanh như Trương Chi Động, Viên Thế Khải cũng chủ trương lập hiến. Phong trào lập hiến sôi nổi trong nước. Từ Hi phái năm đại thần đi Nhật, Anh, Đức để khảo sát chế độ lập hiến của ba quốc gia đó.

Năm sau, họ trở về đều chủ trương lập hiến. Từ Hi Thái hậu liền xuống dụ: "Trước hết cải cách quan chế rồi đến chính trị, khiến sĩ dân hiểu rõ quốc chính để dự bị cơ sở cho việc lập hiến, vài năm sau, xét lại tình hình, xem tiến bộ mau chóng mà định kỳ hạn xa gần."

Rồi triều đình sửa đổi quan chế: đặt ra Tư chính viện ở kinh sư, Tư nghị cuộc ở các tỉnh để làm cơ sở cho Quốc hội và Tỉnh nghị hội, lập thẩm kê viện, thẩm phán sảnh, ban bố Hình luật mới... Sau cùng, năm 1908, triều đình ban bố Hiến pháp đại cương gồm 15 điều. Họ dự bị chín năm sau sẽ hoàn thành hiến pháp.



Thái hoàng thái hậu một ngày[sửa | sửa mã nguồn]


Năm Quang Tự thứ 34 (1908), ngày 22 tháng 10 (tức ngày 15 tháng 11 dương lịch), Từ Hi Hoàng thái hậu qua đời tại Nghi Loan điện (儀鸞殿) ở Trung Nam Hải.

Điều đặc biệt là, Từ Hi Hoàng thái hậu qua đời chỉ một ngày sau cái chết đột ngột của Quang Tự Đế, điều này dấy lên rất nhiều đồn đoán vì Quang Tự Đế vốn tráng niên mạnh khỏe, tuy nhiên bị đột ngột tử vong. Đối với một Từ Hi Hoàng thái hậu đầy quyền uy và đủ động cơ sâu xa, rất nhiều người tin rằng chính Hoàng thái hậu đã giết chết Quang Tự Đế bằng độc. Dù có thế nào đi nữa, phải công nhận rằng Từ Hi Hoàng thái hậu dường như đã biết trước cái chết xảy ra và đã chuẩn bị mọi thứ rất chu đáo.

Trước khi qua đời, Từ Hi đã ấn định Phổ Nghi làm người kế vị, tức Tuyên Thống Đế, và cũng vì lý do đó, bà được tôn làm Thái hoàng thái hậu ngay trong ngày đó vì theo vai vế bà là bà nội của Tân hoàng đế. Cũng vào ngày này, Thái hoàng thái hậu đồng thời cũng chỉ định cha đẻ của Tuyên Thống Đế là Thuần thân vương Tái Phong làm Nhiếp chính vương, cùng Long Dụ Hoàng thái hậu đồng thời hỗ trợ Tân hoàng đế. Sau khi sắp xếp ổn thỏa, vào giờ Mùi (tức khoảng từ 1 giờ chiều đên 3 giờ chiều), Thái hoàng thái hậu băng thệ, chung niên 72 tuổi.

Năm Tuyên Thống nguyên niên (1909), ngày 22 tháng 1 (âm lịch), mùa xuân, triều đình suất chư Vương, Bối lặc, Văn võ đại thần, tôn Đại Hành Thái hoàng thái hậu thụy hiệu rằng Hiếu Khâm Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Sùng Hi Phối Thiên Hưng Thánh Hiển Hoàng hậu (孝欽慈禧耑祐康頤昭豫莊誠壽恭欽獻崇熙配天興聖顯皇后)[25].

Sách văn thụy viết:




Căn cứ Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用) của Nội vụ phủ, chữ thụy hiệu “Khâm” của Từ Hi Thái hậu có Mãn văn là 「Kobton」, là một từ kết hợp Hán văn, nguyên là 「Kobtolombi」, có nghĩa là “Cung kính”, “Kính cẩn”. Theo nhật ký của Ông Đồng Hòa, thụy hiệu này vốn dĩ do Từ An Hoàng thái hậu chuẩn bị từ trước, bởi vì đại khái Từ An Hoàng thái hậu cùng Từ Hi Hoàng thái hậu đều là nhiếp chính, có hàm nghĩa “Khâm mệnh nghe báo cáo và quyết định sự việc”.


Lăng mộ[sửa | sửa mã nguồn]


Tháp tưởng niệm bên ngoài lăng mộ của Từ Hi thái hậu.

Bên trong lăng mộ của Từ Hi thái hậu.

Tuyên Thống nguyên niên (1909), ngày 4 tháng 10 (âm lịch), Từ Hi Thái hậu được hợp táng cùng với Từ An Thái hậu trong Định Đông Lăng (東定陵), thuộc quần thể Thanh Đông lăng cách Bắc Kinh 125 km về phía đông. Cụ thể, nguyên tên của lăng mộ là Phổ Đà Dục Định Đông Lăng (菩陀峪定東陵), lấy từ tên của Phổ Đà sơn, một trong Trung Hoa tứ đại Phật giáo danh sơn. Ngoài ra, lăng nằm ở phía đông của Định Lăng - nơi yên nghỉ của Hàm Phong hoàng đế. Ngày 9 tháng 10 cùng năm, thăng phụ Thái Miếu, điện Phụng Tiên.

Ngày 4 tháng 11 năm 2008, một cuộc giám định pháp y đã kết luận hoàng đế chết vì bị đầu độc bằng thạch tín. Tờ China Daily dẫn lời một nhà sử học, Dai Yi, suy đoán Từ Hi có thể đã biết trước mình không còn sống được bao lâu nữa nên quyết định trừ khử Quang Tự để ngài không thể tiếp tục các biến pháp canh tân. CNN gần đây cũng công bố nồng độ thạch tín trong di hài của Quang Tự cao gấp 2,000 lần người bình thường.


Chiếc Điền tử đầu khảm châu báu có thể đã được Từ Hi Thái hậu đội trong các nghi lễ quan trọng. Có thể thấy rõ hoa văn chim phượng, tượng trưng cho bậc mẫu nghi thiên hạ trong quan điểm truyền thống Trung Quốc.

Từ Hi Thái hậu, vốn không hài lòng với lăng mộ ban đầu, đã cho phá bỏ và xây mới hoàn toàn vào năm 1895. Các cột, kèo, xà và các điện phụ trong khu lăng mộ của bà cũng như các cửa sổ đều được làm bằng gỗ quý. Trên các cột, kèo, xà không dùng loại tranh màu và sơn dầu bình thường mà dùng phấn bột vàng thật vẽ trực tiếp tên đó những bức tranh có rồng có phượng, có mây và những chữ thọ. Ở các bức tranh màu, ở trong và ngoài ba ngôi điện, có hơn 2400 con rồng vàng được giữ gìn khá nguyên vẹn nên đến nay vẫn lấp lánh ánh vàng. Trên ba mặt tường của ba ngôi điện, các tác phẩm điêu khắc to nhỏ, toàn bộ là dùng gạch đắp nên hình năm con dơi đội chữ thọ, và chữ thập ngoặc nối liền nhau không dứt. Nhiều loại hoa văn nối nhau liên tiếp không dứt này có nghĩa là phú quý, tượng trưng cho sự sống lâu, hạnh phúc và may mắn. Những bản điêu khắc đó đều sơn son thiếp vàng tương phản với những hình vẽ óng ánh màu vàng trên các thanh xà, ánh lên những gam màu làm người xem phải lóa mắt.

Nội thất điện trang hoàng lộng lẫy như vậy vẫn chưa đủ. Ngoài lan can người ta còn chạm trổ rồng, phượng và hai mặt của 69 tấm chắn lan can được vẽ 138 bức tranh phượng bay, rồng đuổi. Các đầu cột lan can cũng chạm trổ rồng, phượng; cứ một rồng, một phượng nối tiếp nhau. Nhưng ở đây trên đầu 74 cây cột đều khắc phượng hoàng trong mây, còn thân cột vẽ rồng bay khỏi nước. Loại tranh khắc trên phượng dưới rồng ở đây chưa thấy nơi nào có.

Tháng 7 năm 1928, lăng mộ của Từ Hi Thái hậu bị khai quật bởi quân đoàn của Tôn Điện Anh - một tướng của Quốc Dân đảng. Những kẻ xâm nhập đã lấy đi các vật dụng trang trí có giá trị, cũng như dùng pháo binh mở đường vào nơi chôn cất quan tài, vứt xác của Từ Hi Thái hậu (được kể là vẫn còn nguyên vẹn) xuống nền nhà, và vơ vét tất cả đồ tùy táng. Trong số đó nổi tiếng nhất là viên minh châu lớn đặt trong miệng của Từ Hi Thái hậu để bảo quản xác chết không bị hư hoại. Có thuyết cho rằng, viên minh châu đã được tặng cho Tống Mỹ Linh, phu nhân của quốc trưởng Quốc Dân đảng Tưởng Giới Thạch, và được bà sử dụng để trang trí cho đôi giày dạ tiệc của mình, tuy nhiên việc này chưa được kiểm chứng.

Sau năm 1949, quần thể lăng mộ của Từ Hi Thái hậu được khôi phục và bảo tồn bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và cho tới nay vẫn là một trong những lăng mộ hoàng gia ấn tượng nhất ở Trung Quốc.



Hình chụp Từ Hi Thái hậu. Dòng chữ phía sau là tên hiệu đầy đủ của bà.

Theo khuynh hướng của những người theo chủ nghĩa dân tộc, sử sách thường miêu tả Từ Hi Thái hậu như một bạo chúa và phải chịu trách nhiệm cho sự suy tàn của Trung Hoa cuối thế kỷ XIX.

So với một nhà lãnh đạo cùng thời khác là Thiên Hoàng Minh Trị, Từ Hi Thái hậu ích kỷ hơn do nghĩ đến lợi ích cá nhân nhiều hơn. Bà đã nhiều lần sử dụng quốc khố cho mục đích riêng. Các cung điện, hoa viên, cũng như chi tiêu của bà được đánh giá là quá xa hoa tốn kém trong bối cảnh Trung Quốc đang trên bờ vực phá sản[26]. Dù nổi tiếng thông minh, nhưng do ít học và thiếu nhiều kiến thức về tình hình quốc tế - tương tự các Hoàng đế Nhà Thanh trước đó như Đạo Quang Đế hay Hàm Phong Đế - nên bà có tầm nhìn hạn hẹp và tư duy bảo thủ hơn so với Minh Trị. Tuy nhiên, các nhà sử học cho rằng bước ngoặt đáng kể của lịch sử Trung Quốc, đánh dấu sự suy tàn của đế chế Đại Thanh, lại xảy ra khi Từ Hi đã lui về nghỉ ở Di Hòa Viên. Đó là lúc chiến tranh Thanh - Nhật bùng nổ dưới sự chấp chính của Quang Tự. Nhà Thanh sau đó phải bồi thường cho Nhật một khoản tiền khổng lồ, làm khánh kiệt quốc gia. Từ Hi buộc phải quay lại chấp chính để khắc phục những hậu quả do sự cai trị kém cỏi của hoàng đế.

Từ Hi nổi tiếng với những cuộc thanh trừng đối thủ một cách tàn bạo. Một cuộc khảo cổ gần đây hé lộ nguyên nhân cái chết của Quang Tự Đế là do bị đầu độc bằng thạch tín. Ngoài ra, còn nhiều ví dụ khác như việc xử tử Túc Thuận, ép Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu của Đồng Trị Đế phải tự sát, hay cái chết mờ ám của Trân phi. Tuy nhiên, ngay cả các bậc quân vương nổi tiếng khác trên thế giới như Nữ vương Elizabeth I, Augustus Caesar cũng có những cuộc thanh trừng đẫm máu như vậy để củng cố quyền thống trị của mình. Thậm chí, so với một lãnh tụ nổi tiếng khác của Trung Quốc là Mao Trạch Đông, người đã tàn sát hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người,[27] thì những đả kích nhắm vào một mình Từ Hi dường như không hợp lý.[28] Những ý kiến gần đây cho rằng các nhận xét tiêu cực về sự cai trị và cuộc sống riêng của Từ Hi đều mang màu sắc của nạn phân biệt nam - nữ, như trong trường hợp các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích Võ Tắc Thiên.

Thậm chí khi so với Võ Tắc Thiên, giai đoạn của Từ Hi Thái hậu có phần bất lợi hơn. Võ Tắc Thiên lên ngôi giữa lúc Nhà Đường đang thịnh trị, trong nước chính trị trong sạch, bên ngoài mở mang bờ cõi. Thời của Từ Hi Thái hậu, Trung Quốc chứng kiến sự xâm nhập mạnh mẽ của các đế quốc phương Tây. Ngoài ra, những vấn đề nghiêm trọng nhất của xã hội, như nạn thuốc phiện, tham nhũng, quan liêu, cùng với khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên Quốc, đều đã diễn ra từ các triều vua trước đó. Khi so với Thiên Hoàng Minh Trị, Từ Hi cai quản một đất nước với lãnh thổ rộng lớn hơn, dân số đông hơn, bộ máy hành chính cồng kềnh hơn, và dĩ nhiên là miếng mồi béo bở hơn cho các cường quốc Âu - Mỹ lao vào xâu xé. Ảnh hưởng của Nho giáo tại Nhật Bản cũng không thâm căn cố đế như ở Trung Quốc, nên các cải cách cũng phần nào dễ dàng hơn.

Do vậy, sự sụp đổ của Nhà Thanh nói riêng và chế độ phong kiến nói chung ở Trung Quốc là hệ quả mang tính thời đại, hơn là do ảnh hưởng cá nhân của Từ Hi Thái hậu.


Katherine Karl[sửa | sửa mã nguồn]


Tranh vẽ Từ Hi Thái hậu của Katherine Carl.

Năm 1903, Katherine Karl đã ở cùng với Từ Hi Thái hậu trong 10 tháng để vẽ chân dung của bà. Khoảng 2 năm sau, Katherine xuất bản cuốt sách có tựa đề "With the Empress Dowager" (Ở bên Hoàng thái hậu) để miêu tả lại những trải nghiệm của mình. Trong lời đề tựa cho cuốn sách, Carl viết rằng bà quyết định xuất bản cuốn sách vì "sau khi trở về Mỹ, tôi đã nhiều lần đọc được trên báo chí (hay nghe thấy) những lời bịa đặt được gán cho mình dù bản thân tôi chưa bao giờ phát biểu những điều đó".[29]

Trong cuốn sách, Katherine Carl miêu tả Từ Hi Thái hậu như một người sáng suốt, chu đáo và thận trọng. Bà còn có thần thái ung dung thu hút, cùng một cá tính hấp dẫn. Carl nhớ lại, Thái hậu rất yêu thích chó cảnh, hoa cỏ, chèo thuyền, Kinh kịch, cũng như hút thuốc lá phương Tây từ loại tẩu truyền thống của Trung Quốc.

Carl còn cho biết Từ Hi Thái hậu là một người thủy chung và có tấm lòng vị tha. Cuốn sách kể một trường hợp về "một nhũ mẫu người Hán đã chăm nom Thái hậu khi bà bị ốm trong suốt 25 năm, thậm chí còn đem sữa của mẹ mình dâng cho Thái hậu uống để lấy lại sức khỏe. Thái hậu chưa bao giờ quên ân đức đó, nên đã giữ người nhũ mẫu này bên mình trong cung điện. Là một người Hán, bà phải chịu tục bó chân hết sức đau đớn và không thể đi lại thoải mái. Thái hậu đã hạ lệnh tháo các lớp bó chân và chăm sóc nhũ mẫu cho đến khi bà có thể đi lại bình thường. Thái hậu còn giúp nuôi dạy con trai của bà từ lúc nhỏ cho tới khi anh ta được xét vào làm việc trong triều đình."


Luke Kwong[sửa | sửa mã nguồn]


Ảnh chụp Từ Hi thái hậu

Luke Kwong, trong bài nghiên cứu về Bách nhật duy tân, đã chỉ ra rằng những cáo buộc nhằm vào thái hậu, tô vẽ bà như một kẻ độc tài ham mê quyền lực, là không xác đáng.[30] Ông miêu tả thái hậu là một người luôn lo lắng cho địa vị của mình. Do mặc cảm về xuất thân thấp kém trong hậu cung,[31] bà phải cố gắng chính thống hóa sự cai trị bằng cách xây dựng phe cánh ủng hộ mình trong một thời gian dài. Kwong cũng lập luận, lần phụ chính lần thứ hai của Từ Hi năm 1898 không hẳn bắt nguồn từ sự khao khát quyền lực, mà đúng hơn là do những kẻ thủ cựu - vốn lo sợ những biến pháp của Quang Tự sẽ làm ảnh hưởng đến lộc vị của mình - đã tìm cách lôi kéo thái hậu quay lại tham chính.[32] Trên thực tế, Quang Tự là một vị vua ngây thơ, nếu không muốn nói là bất tài trong việc điều hành quốc sự. Chính quyết định gây chiến với Nhật Bản của nhà vua đã đẩy vương quốc đến chỗ phá sản. Ngài còn cùng với Khang Hữu Vi lên kế hoạch bao vây Di Hòa Viên và giam lỏng thái hậu. Khang Hữu Vi thậm chí đã muốn ám sát Từ Hi - một kịch bản đã bị chôn giấu trong nhiều thế kỷ cho đến khi được các nhà sử học tìm thấy trong một tàng thư ở Nhật Bản, có thể đã được họ Khang đem tới Tokyo khi trốn chạy sự trừng phạt của Từ Hi.[33]

Trước những thách thức đó, Từ Hi Thái hậu càng bị buộc phải ở vào thế kháng cự, sử dụng bàn tay sắt để bảo vệ Triều đại của bà.


Sterling Seagrave[sửa | sửa mã nguồn]


Nhà sử học Sterling Seagrave phân tích[34] những tình tiết giật gân về cuộc đời của Từ Hi Thái hậu đều do Khang Hữu Vi và đồng đảng của mình thêm thắt và phát tán cho báo chí phương Tây để bôi nhọ bà, dù bản thân họ chưa một lần được gặp thái hậu. Ngoài ra, có nhiều câu chuyện về bà được viết bởi J. O. P. Bland và Edmund Backhouse, những người sống sau Từ Hi tới 30 năm và chưa từng bước chân vào Tử Cấm Thành hay Di Hòa Viên. Những chi tiết thiếu khách quan này sau đó lại được sử dụng trong nhiều tài liệu học thuật trong thế kỷ XX, dẫn đến chân dung của thái hậu trở nên méo mó trong mắt công chúng.

Seagrave miêu tả Từ Hi Thái hậu như một nhà lãnh đạo bị mắc kẹt giữa một bên là tư tưởng bài ngoại vốn xuất hiện từ lâu trong triều đình, với một bên là mong muốn xử lý các vấn đề đương đại của Trung Quốc một cách thực tế và hợp thời hơn. Seagrave kết luận, thái hậu không hề khao khát quyền lực cho riêng mình mà chỉ đơn giản là bằng mọi cách duy trì sự thống trị tối cao của Thanh triều trong hoàn cảnh có quá nhiều sức ép từ bên ngoài.


Lôi Gia Thánh[sửa | sửa mã nguồn]


Dựa trên các nghiên cứu của giáo sư Lôi Gia Thánh (雷家聖),[35] khi cuộc Bách nhật duy tân đang diễn ra, thủ tướng Nhật lúc đó là Itō Hirobumi (伊藤博文) đã đến Trung Quốc vào ngày 11 tháng 9 năm 1898. Cùng thời gian, nhà truyền giáo người Anh Timothy Richard được Khang Hữu Vi mời tới Bắc Kinh. Richard đã gợi ý Trung Quốc nên chuyển giao một số quyền lực chính trị cho Itō để cuộc duy tân diễn ra thuận lợi.[36] Ngày 18 tháng 9, Richard thuyết phục Khang Hữu Vi tham gia một liên minh bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Anh với 100 thành viên cao cấp. Gợi ý này không phải đến từ các quốc gia nói trên mà từ chính Timothy Richard (cũng có thể từ Itō Hirobumi) để lừa Trung Quốc từ bỏ quyền tự chủ của mình. Tuy vậy, Khang Hữu Vi vẫn yêu cầu Lương Khải Siêu đem gợi ý này lên vua Quang Tự.[37] Ngày 20 tháng 9, Lương Khải Siêu chính thức gửi tấu chương đến hoàng đế. Trong một bản tấu khác, những người duy tân cũng thể hiện sự ủng hộ đối với việc thành lập liên minh và chuyển các quyền ngoại giao, tài chính, quân sự của bốn nước cho liên minh chung này.[38] Có thể đó chính là lý do khiến Từ Hy Thái Hậu quyết định phế bỏ biến pháp vào ngày 21 tháng 9, chỉ sau 2 ngày trở về từ Di Hoà Viên.

Các nghiên cứu của Lôi Gia Thánh cũng chỉ ra, ngày 13 tháng 10, sau cuộc đảo chính, sứ thần Anh quốc là Sir C. MacDonal đã báo cáo về tình hình ở Trung Quốc đến chính phủ. Ông cho rằng công cuộc duy tân đã bị chính Khang Hữu Vi và nhóm của mình làm phương hại. Nhà ngoại giao Anh Baurne tuyên bố Khang Hữu Vi là một người ảo tưởng và đã bị làm mờ mắt bởi những lời đường mật của Timothy Richard. Ông cho rằng Richard chỉ là một kẻ cơ hội.[39] Chính phủ Anh và Mỹ không hay biết gì về cái gọi là "liên minh" của Richard. Chính phủ Nhật có thể đã biết về kế hoạch này, vì Itō Hirobumi là đồng minh của Richard, nhưng không có bằng chứng nào cho chuyện đó.


Đức Linh công chúa[sửa | sửa mã nguồn]


Chân dung Đức Linh công chúa

Dụ Đức Linh (裕德齡), tên thánh là Elisabeth Antoinette, sinh ở Bắc Kinh vào tháng 6 năm 1885 và mất ở Berkeley, California vào tháng 11 năm 1944, là con gái của Vũ Khang, một quan lại thuộc Chính Bạch Kỳ, và vợ là Louisa Pierson - con của nhà buôn người Mỹ và một người thiếp Trung Quốc.

Năm 1903, sau khi cha của Đức Linh được gọi về Trung Quốc từ Paris, nơi ông đang làm đại sứ, bà cùng mẹ và em gái được Từ Hi thái hậu triệu vào cung làm nữ quan. Nhiệm vụ của họ là hầu cận bên thái hậu, cùng với phiên dịch và tiếp đón các vị khách nước ngoài. Đức Linh đã hầu hạ trong cung từ tháng 3 năm 1903 cho tới tháng 10 năm 1905. Năm 1907, bà kết hôn với một người Mỹ tên Thaddeus Cohu White.

Sau khi Từ Hi qua đời năm 1908, Đức Linh tuyên bố bà hết sức tức giận khi thấy hình ảnh của Từ Hi Thái hậu bị xuyên tạc qua sách vở và báo chí. Vì vậy, bà quyết định viết một cuốn sách nhan đề "Two years in the Forbidden City" ("Hai năm trong Tử Cấm Thành"), kể về quá trình hầu hạ "Lão Phật Gia". Cuốn sách xuất bản năm 1911, ngay trước khi Nhà Thanh sụp đổ, và bán rất chạy. Trong cuốn sách, Từ Hi Thái hậu không phải là một kẻ suy đồi, tàn bạo như mô tả của báo chí hay hồi ký của những người nước ngoài từng sống tại Bắc Kinh, mà chỉ đơn giản là một bà lão thích chơi với những vật dụng đẹp đẽ. Thái hậu cũng có nhiều nỗi luyến tiếc trong lòng về cách bà đối phó với những thách thức trong thời gian nắm quyền.

Từ Hi Thái hậu sủng ái Đức Linh đến độ cho phép bà cài chiếc nút chỉ dành riêng cho công chúa lên mũ của mình. Nhiều năm sau, khi tìm một từ tiếng Anh để miêu tả vị trí của mình trong cung điện, Đức Linh đã quyết định dùng chữ "Princess" (công chúa). Danh hiệu này không chỉ khiến bà trở nên nổi tiếng ở Trung Quốc mà còn nâng tầm quan trọng cho bà khi đi diễn thuyết trước công chúng Hoa Kỳ về cuộc sống trong cung với Từ Hi. Đức Linh sau đó hoàn thành một cuốn tiểu sử về Từ Hi mang tên "Old Buddha" ("Lão Phật").

Đức Linh còn tiếp tục viết 7 cuốn sách khác về quãng thời gian ngắn ngủi mà bà được ở ngay trung tâm của đế chế Đại Thanh đang trên đà sụp đổ. Việc viết cũng như quảng bá cho các cuốn sách khiến Đức Linh bất hòa với chính gia đình mình. Điều này khiến giới học giả khó khăn trong việc đánh giá tính khách quan trong các tác phẩm của bà. Nhưng sự thật thì Đức Linh vẫn là người phụ nữ đầu tiên được tiếp xúc với Từ Hi khi còn sống và viết về thái hậu như những điều mắt thấy tai nghe. Dù còn thiếu một số dữ kiện và đối chứng, nhưng các tác phẩm của Đức Linh phần nào hé lộ nhiều khía cạnh khác trong cuộc đời của Từ Hi thái hậu.

Cùng với cuốn tiểu sử "Dragon Lady: The Life and Legend of the Last Empress of China" của Sterling Seagrave, những cuốn hồi ký của Đức Linh đã được phục hồi trong một nỗ lực nhằm đánh giá lại Từ Hi thái hậu. Tháng 1 năm 2008, nhà xuất bản Đại học Hồng Kông đã phát hành cuốn tiểu sử đầu tiên về Đức Linh mang tên "Imperial Masquerade: The Legend of Princess Der Ling".[40]


Các nguồn khác[sửa | sửa mã nguồn]


Jung Chang, tác giả cuốn sách thách thức những quan niệm cũ cho rằng Từ Hi Thái hậu là một kẻ độc tài tàn bạo.

Trong cuốn hồi ký của mình khi đang làm phái viên của Anh ở Bắc Kinh, Sir Ernest Satow miêu tả Từ Hi thường xuất hiện trong các nghi lễ long trọng.

Một cuốn tiểu sử nổi tiếng nhưng cũng gây nhiều tranh cãi của J. O. P. Bland và Edmund Backhouse mang tên "China Under the Empress Dowager" ("Trung Hoa dưới sự cai trị của thái hậu"). Backhouse bị phát hiện đã giả mạo nhiều nguồn tư liệu khi viết sách. Không chỉ có Từ Hi Thái hậu, Edmund Backhouse còn khoác lác về quan hệ tình ái của mình với nhiều nhân vật nổi tiếng khác như Paul Verlaine, Oscar Wilde, thậm chí cả một công chúa của đế quốc Ottoman, v.v... Chính cuốn sách này đã hình thành các quan điểm tiêu cực đối với thái hậu ở phương Tây.[41] Năm 2013, học giả Jung Chang phát hành một cuốn tiểu sử khác nhằm mục đích hiệu đính lại những sai lầm lịch sử trong tác phẩm của Bland và Backhouse. Jung Chang đánh giá Từ Hi là nhà lãnh đạo có năng lực nhất mà Nhà Thanh có ở thời điểm đó.

Không thể phủ nhận Từ Hi Thái hậu là một chính trị gia lão luyện. Tuy nhiên vào thời của bà, "chính trị" đã không chỉ đơn thuần là đấu đá trong hoàng thất hay thao túng triều đình nữa. Chính trị Trung Quốc cuối thế kỷ XIX là một tập hợp của những mâu thuẫn xã hội, xung đột trong tư tưởng, sự thay đổi trong phương thức sản xuất, cùng với vô vàn sức ép từ phương Tây. Từ Hi Thái hậu nói riêng và triều đình phong kiến Mãn Thanh nói chung - vốn là thai nghén của hàng ngàn năm quân chủ chuyên chế, vốn luôn tự coi mình là "thiên triều" ở trung tâm của thế giới - đã không thích ứng được với những biến động to lớn đó. Là người đại diện cao nhất của chế độ, Từ Hi Thái hậu đã quyết liệt bảo vệ những giá trị căn bản của nó như quyền lực trung ương, lộc vị của giới quý tộc, phương thức sản xuất cũ, hệ thống quan lại, truyền thống Nho giáo v.v... Cách thức cai trị của bà có thể coi là bảo thủ, cố chấp, nhưng cũng có thể là quyết đoán, tận tâm, tùy theo những góc nhìn, quan điểm khác nhau. Sau khi bà qua đời, Thanh triều không còn một lãnh tụ nào đủ sức gánh vác một hình thái nhà nước đã lỗi thời như vậy nữa, tất yếu dẫn đến diệt vong.

Một nhận định cho rằng: "Đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về di sản của Từ Hi Thái hậu, từ những tin đồn rằng bà là một hôn quân dâm dật cho tới nghiên cứu gần đây của Jung Chang tuyên bố "Từ Hi đã phải chịu nhiều bất công suốt hàng trăm năm qua" và "các lực lượng chính trị thống trị Trung Quốc từ sau khi Nhà Thanh sụp đổ cho tới nay đã cố tình bôi đen hình ảnh cũng như những thành tựu của bà". (Tuy vậy) nếu xét riêng về thành tựu, kể cả trên vũ đài chính trị cũng như cuộc sống cá nhân, Từ Hi đã đạt được nhiều điều mà hiếm phụ nữ nào sánh nổi."[33]


Từ Hi Thái hậu trong văn hóa đại chúng[sửa | sửa mã nguồn]


Tranh vẽ Từ Hi Thái hậu do một họa sĩ cung đình, không rõ năm.

Tranh Từ Hi thái hậu do một họa sĩ nước ngoài vẽ sau năm 1900.


Là một trong những nhân vật lịch sử nổi bật nhất ở châu Á thời kỳ cận đại, Từ Hi Thái hậu đã được miêu tả trong vô số sách truyện, báo chí, phim ảnh. Cộng thêm những bí mật về cuộc sống phía sau Tử Cấm Thành luôn là một chủ đề thu hút trí tò mò của công chúng, hình ảnh của thái hậu không tránh khỏi bị thêm thắt, đồn thổi. Một số chi tiết hư cấu đã trở nên nổi tiếng đến mức được nhắc lại nhiều lần trong các tác phẩm khác, khiến đông đảo người tin vào đó như những sự thật lịch sử.

"Thanh Cung Thập Tam Hoàng Triều" ("13 đời vua triều Thanh") là một trong những bộ truyện nổi tiếng nhất có nhắc về Từ Hi Thái hậu. Đây thuần túy là một tiểu thuyết diễm sử được phóng tác dựa trên những sự kiện và nhân vật có thật, nhưng sự nổi tiếng của cuốn sách và các bộ phim truyền hình ăn theo đã làm cho nhiều người đánh đồng nó thành chính sử. Cuốn sách đã góp phần phổ biến nhiều chi tiết không chính xác hoặc chưa được kiểm chứng về Từ Hi Thái hậu như chuyện hoàng tử Tải Thuần là con riêng của Từ Hi và người tình, hoàng đế Đồng Trị chết vì bệnh giang mai, Từ Hi đầu độc Từ An vì một di chiếu của Hàm Phong, hay chuyện bà dan díu với nhà sư và thái giám, v.v... Bản thân tác giả - Hứa Tiếu Thiên – là một người có khuynh hướng "phản Thanh phục Hán", nên ngòi bút của ông cũng đậm tính đả kích, bêu rếu triều đình Mãn Thanh. Không riêng gì Từ Hi, mà nhiều nhân vật khác cũng bị "Thanh Cung Thập Tam Hoàng Triều" hư cấu tiêu cực như vua Thuận Trị xuất gia, Ung Chính bị Lã Tứ Nương chém đầu, Càn Long thực chất là con của Trần Các Lão, cùng nhiều giai thoại giật gân khác.

Bên cạnh những miêu tả Từ Hi Thái hậu như một nhân vật đồi bại và khát máu, cũng có nhiều tác phẩm nhắc đến bà dưới góc nhìn nhân văn hơn:


  • "Imperial Woman" của nhà văn Pearl S. Buck (xuất bản tại Việt Nam dưới tên "Từ Hi Thái hậu" của dịch giả Nguyễn Thế Vinh) kể về cuộc đời của Từ Hi qua lời tự sự của chính bà, từ lúc rời gia đình vào cung làm tú nữ cho đến khi đã nắm cả giang sơn trong tay.[42] Từ Hi Thái hậu hiện lên như một người phụ nữ với những tâm tư, nguyện vọng hết sức bình thường, nhưng đứng trước những sóng gió của Trung Hoa trong thời khắc tranh tối tranh sáng, đã buộc phải gác lại những tình cảm cá nhân của mình để ra sức hàn gắn một đế quốc đang tan rã. Tác giả cũng đặt ra giả thuyết Từ Hi có mối tình thanh mai trúc mã với Vinh Lộc, người sau này là Tổng đốc Trực Lệ.

  • "Nhật Lạc Tử Cấm Thành" là một tiểu thuyết khá nổi tiếng của Lương Phụng Nghi, sau được chuyển thể thành phim truyền hình năm 1997 với Tư Cầm Cao Oa trong vai Từ Hi Thái hậu (đã được VTV phát sóng ở Việt Nam với cái tên "Mặt trời lặn sau Tử Cấm Thành"). Truyện kể về nhân vật Ngâm Nhi, một cung nữ trong Tử Cấm Thành, bị cuốn vào vòng xung đột giữa Từ Hi và Quang Tự. Những mâu thuẫn trong truyện không chỉ đơn thuần là giữa cái xấu – cái tốt, mà là giữa cái cũ và cái mới, giữa cứng rắn và nhu nhược, giữa thủ cựu và tiến bộ. Tây thái hậu là một nhà lãnh đạo hà khắc, tàn nhẫn, nhưng quyết đoán và biết cách cai trị. Trong khi đó, vua Quang Tự tuy nhiệt tình muốn chấn hưng đất nước nhưng lại mềm yếu, nóng vội, thiếu chính kiến. Phim kết thúc khi Từ Hi và Quang Tự đồng loạt qua đời, Ngâm Nhi được xuất cung lấy người mình yêu. Nhưng sau quá nhiều biến cố, đổi thay, nàng quyết định cùng chồng uống thuốc độc tự vẫn vào ngày cưới để khép lại mọi bi kịch. Cái chết của các nhân vật cũng là lời cáo chung cho văn hóa cũ, chế độ cũ, con người cũ.

  • "Tiến tới nền cộng hòa" năm 2003, một bộ phim nói về Cách mạng Tân Hợi được trình chiếu trên CCTV, với diễn viên Lữ Trung đóng vai Từ Hi Thái hậu. Bộ phim miêu tả Từ Hi như một nhà cầm quyền cứng rắn, tận tụy. Mặc dù được khán giả đón nhận nồng nhiệt[43] nhưng bộ phim sau đó đã bị kiểm duyệt bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc vì các lý do chính trị. Từ 60 tập ban đầu, phim bị cắt còn 59 tập.[44]

  • "Thương khung chi Mão" là một bộ tiểu thuyết của nhà văn Nhật Bản Asada Jiro (tên tiết Nhật của tiểu thuyết là Sokyu no Subaru, tiếng Anh The Firmament of the Pleiades), sau được chuyển thể thành phim truyền hình cùng tên do đạo diễn Uông Tấn thực hiện năm 2009. Bộ phim xoay quanh sự kiện Bách nhật Duy Tân, mối quan hệ giữa Từ Hi Thái hậu cùng con nuôi Quang Tự và tiểu thái giám tên Lý Xuân Vân. Vai diễn Từ Hi Thái hậu do nữ diễn viên Tanaka Yuko thủ diễn. Năm 2011, bộ phim đoạt giải Phim cổ trang xuất sắc nhất tại Liên hoan điện ảnh Cầu vồng Á Châu lần thứ 1.

Bên cạnh đó, trên màn ảnh nhỏ Từ Hi Thái hậu từng được nhiều diễn viên nổi tiếng thể hiện như Mễ Tuyết ("Thanh cung thập tam hoàng triều", "Đại thái giám"), Lưu Hiểu Khánh ("Hỏa thiêu Viên Minh viên", "Thùy liêm thính chính"), Cai Lệ Lệ ("Thái bình thiên quốc"), Lý Minh Khởi ("Đầu bếp làm quan"), Lưu Tuyết Hoa ("Thiếu nữ Từ Hi"), Đặng Tiệp ("Từ Hi tây hành"), v.v...

Trong điện ảnh, Từ Hi Thái hậu cũng xuất hiện trong một phân cảnh của phim "The Last Emperor" ("Hoàng đế cuối cùng") năm 1987 của đạo diễn Bernardo Bertolucci, khi bà trao quyền thừa kế đế quốc Đại Thanh vào tay đứa trẻ 2 tuổi Phổ Nghi. Bộ phim sau đó giành tới 9 giải Oscar, bao gồm Phim xuất sắc nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất.



Từ Hi Thái hậu trong bức chân dung thờ phụng. Bà mặc bộ Triều quái truyền thống của các hậu phi Nhà Thanh.

Bà thường được biết đến dưới cái tên Từ Hi Thái hậu, nhưng đây không phải là tên thật của bà mà là tôn hiệu do các Hoàng đế Đồng Trị cùng Quang Tự chọn dâng lên. Tên khai sinh của Từ Hi Thái hậu không được sử sách ghi lại, nhưng trong một cuốn sách gần đây do hậu duệ của em trai bà xuất bản có nhắc đến cái tên Hạnh Trinh (杏貞). Tên bà được ghi lại lần đầu tiên khi bà nhập cung vào tháng 9, năm 1851, là Diệp Hách Na Lạp thị, con gái của Huệ Trưng (惠徵). Bà được gọi bằng họ của mình.

Vào cuối tháng 8 năm 1861, Hàm Phong hoàng đế qua đời. Con trai bà lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Đồng Trị. Với thân phận mẹ của Hoàng đế nhưng chỉ là phi tần, ban đầu bà được tôn làm Hoàng Quý Thái Phi. Về sau, Đồng Trị Đế dựa vào điển chế cũ, bà được tôn phong là Thánh Mẫu Hoàng thái hậu (聖母皇太后) với tên hiệu là Từ Hi (慈禧; có nghĩa là "hiền hòa" và "tốt lành"). Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị của Hàm Phong Đế do là Trung cung Hoàng hậu, được tôn phong làm Mẫu Hậu Hoàng thái hậu (母后皇太后) - danh hiệu để chỉ rằng địa vị của bà cao hơn Từ Hi - với tên hiệu là Từ An (慈安; có nghĩa "hiền hòa" và "tĩnh lặng"). Trong thế giới Đông Á, phía Đông là dành cho chính, nên Từ An Thái hậu khi ngồi sau rèm nghe chính, ở hướng Đông, đương thời thông gọi là Đông Thái hậu; Từ Hi Thái hậu ở hướng Tây nên đương thời thông gọi Tây Thái hậu.

Kể từ năm 1861, Từ Hi Thái hậu được thêm tên hiệu 7 lần (mỗi lần 2 chữ) theo điển lệ (Thái Hậu được thêm tên hiệu 9 lần, nâng tổng số chữ đầy đủ có thể lên đến 20 chữ). Đến cuối đời, tên hiệu của bà dài đến 16 chữ, bắt đầu bằng Từ Hi. Tên hiệu chính thức của bà khi còn sống là: Đại Thanh quốc Đương Kim Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Sùng Hi Thánh Mẫu Hoàng thái hậu (大清國當今慈禧端佑康頤昭豫莊誠壽恭欽獻崇熙聖母皇太后), gọi ngắn gọn lại là Đại Thanh quốc Đương Kim Thánh Mẫu Hoàng thái hậu (大清國當今聖母皇太后).

Trong đại nội, Từ Hi Thái hậu còn được gọi là Lão Phật gia (老佛爺) - một danh hiệu tôn kính được các người trong đại cung dùng để gọi các Hoàng thái hậu Nhà Thanh, và được tung hô là Đại Thanh quốc Đương Kim Thánh Mẫu Hoàng Thái hậu Vạn tuế Vạn tuế Vạn vạn tuế (大清國當今聖母皇太后萬歲萬歲萬萬歲). Danh xưng "Vạn tuế", theo điển lệ trước nay, chỉ có Hoàng đế được dùng, còn Thái hậu chỉ được dùng danh xưng "Thiên tuế" (千歲), cho thấy quyền hành lớn của Từ Hi Thái hậu khi ấy.

Lúc qua đời, Từ Hi Thái hậu được mang thuỵ hiệu của Hoàng hậu gồm các tên hiệu bà có lúc còn sống cùng với một số tên hiệu mới. Bà chỉ là Quý phi của Hàm Phong Đế, vì sinh ra Đồng Trị Đế mới được tôn Thái hậu, nhưng về sau vẫn gọi là Hoàng hậu. Là vì danh xưng Thái hậu vốn dành cho Hoàng hậu của Tiên đế, nên dù trước đó chỉ là tần phi, nhưng đã được tôn làm Thái hậu thì thụy hiệu của người đó vẫn sẽ trở thành Hoàng hậu, như trường hợp trước đó là Hiếu Trang Văn Hoàng hậu, Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu hoặc Hiếu Tĩnh Thành hoàng hậu. Thuỵ hiệu đầy đủ của bà là Hiếu Khâm Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Sùng Hi Phối Thiên Hưng Thánh Hiển Hoàng hậu (孝欽慈禧耑祐康頤昭豫莊誠壽恭欽獻崇熙配天興聖顯皇后). Bà là Hoàng hậu có thuỵ hiệu dài nhất trong lịch sử Nhà Thanh, thậm chí còn dài hơn hai chính cung của Hàm Phong là Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu và Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu.





  1. ^ “Cixi Outlaws Foot Binding”. 

  2. ^ Sue Fawn Chung, "The Much Maligned Empress Dowager: A Revisionist Study of the Empress Dowager Tz'u-Hsi (1835–1908)," Modern Asian Studies 13.2 (1979): 177–196.

  3. ^ Laidler, Keith (2003), "The Last Empress" (p. 58), John Wiley & Sons Inc., ISBN 0-470-84881-2.

  4. ^ 清实录咸丰朝实录: 庚申。命大学士裕诚、为正使。内阁学士黄宗汉、为副使。持节赍册宝。晋封懿妃那拉氏、为懿贵妃。册文曰。朕惟椒涂佐治。含章应厚载之贞。瓜瓞延祺。笃祜启灵长之祚。焕芝泥而光贲。膺鞠采而荣增。咨尔懿妃那拉氏、赋质金相。秉心玉粹。柔嘉维则。表令范于珩璜。淑慎其仪。懔芳规于图史。祥开麟定。恩奉龙章。瑞毓螽诜。吉符燕喜。既蕃禧之茂介。宜显秩之攸加。是用晋封尔为懿贵妃。锡之册宝。尔其坤仪懋赞。敬承昌燕之休。巽命丕扬。益荷庞鸿之泽。钦哉。

  5. ^ “您访问的页面不存在”. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018. 

  6. ^ Edward Behr, The Last Emperor, 1987, p. 44

  7. ^ Sui Lijuan: Carrying out the Coup. CCTV-10 Series on Cixi, Ep. 4

  8. ^ a ă Edward Behr, The Last Emperor, 1987, p. 45

  9. ^ 清实录同治朝实录: 戊寅。以恭上慈安皇太后慈禧皇太后徽号礼成。颁诏天下。诏曰。朕惟古帝王膺图建极。嗣服妥猷。禀懿训于藼帏。熙洪称于芝检。粤稽祥开虞祚。媺溯英皇。化起周京。誉推任姒。载观往籍。聿著前型。钦惟母后皇太后。道赞乾元。德符坤厚。播徽音于海宇。表淑则于宫闱。圣母皇太后。性备中和。教成雝穆。笃深仁而衍绪。本至善以诒谋。作配重华。九陛合二仪之撰。蒙庥累叶。两宫徵一德之孚。绩懋垂廉。心劳凤扆。礼崇缫茧。躬诣蚕坛。逮下则葛藟兴思。奉先则苹蘩致敬。综古今之治理。金鉴求书。屏服御之奢华。练衣示范。允符地道。克代天工。丕基奠若苞桑。永祚绵夫瓜瓞。庞鸿翊运。赞帝治者十一年。昌燕延厘。式母仪者千百国。朕渥沐隆恩于教育。虔循茂矩以推崇。瑶戺腾芬。休徵有象。彤编绚彩。介福无疆。仰覆帱之宏施。慈辉普被。合尊亲而并戴。令闻昭宣。咨议佥同。典章具备。祇告天。地。宗庙。社稷。于同治元年四月二十五日。率诸王贝勒文武群臣。谨奉册宝。恭上母后皇太后尊号。曰慈安皇太后。恭上圣母皇太后尊号。曰慈禧皇太后。臣庶之欢心莫罄。澨陬之闿泽均沾。所有事宜。开列于后。一、在内亲王之福晋以下。公之妻以上。著加恩赐。一、外藩蒙古诸王之福晋以下。公之妻以上。著加恩赐。一、民公侯伯以下、二品大臣以上命妇。著加恩赐。一、从前尚过公主格格之额驸等。照伊等品级。著加恩赐。一、从前恩诏后升职加衔补官者。悉照现在职衔。给与封典。一、在京文官四品以上。武官三品以上。各加一级。一、在京王公文武官员。任内有降级罚俸住俸者。咸与开复。又在京官员。现在议降议罚者。悉与豁免。一、外藩蒙古王公以下。台吉以上。有罚俸住俸者。咸与开复。其现在议罚者。悉与豁免。一、除十恶不赦外。犯法妇人。尽行赦免。一、太监等赏给一月钱粮。一、上三旗辛者库当差妇人。酌议赏赐。一、罚赎积谷。原以备赈。冬月严寒。鳏寡孤独贫民。无以为生。著直省各督抚、令有司务将积谷酌量赈济。毋令奸民假冒支领。一、各处效力赎罪人员。向无定限。多至苦累。殊堪矜悯。著各该管官查系已满三年者。声明犯罪缘由。奏请酌量宽免。于戏。惠敷兰掖。贻万民康阜之庥。瑞集萝图。启百世炽昌之运。布告天下。咸使闻知。

  10. ^ 跪宣圣母皇太后册文曰。徽音懋著。璇枢延爱日之晖。彝典推崇。宝篆耀祥云之采。统六宫而瞻壸教。盛德聿昭。合万国而奉母仪。尊称爰晋。钦惟圣母皇太后。道彰坤顺。福茂履祥。温恭夙仰夫令仪。雍肃咸钦夫淑范。躬先节俭。椒庭垂浣濯之型。心矢祗勤。柘馆示织纴之则。侍先帝而柔嘉尽慎。诫懔鸡鸣。越冲人而鞠育维殷。谋诒燕翼。曩昔彤闱敬事。叨懿训之时亲。迄今紫罽欢承。荷恩晖之永托。抚藐躬以缵绍。弥廑志于显扬。绎诗歌顺比之章。慈和普被。释诂详祓褫之义。禧福永膺。谨告天。地。宗庙。社稷。率诸王贝勒文武群臣。敬奉册宝。上尊号曰慈禧皇太后。伏愿蕃祉骈臻。洪厘骏集。合九州之富以为养。尚未尽夫孝思。颂万福之同于无疆。自长延夫令绪。谨言。上率王大臣官员行礼。礼成。

  11. ^ Nguyên văn: 《清宮遺聞》中記載;“東宮優于德,而大誅賞大舉措實主之;西宮優于纔,而判閱奏章,及召對時咨訪利弊”。

  12. ^ [Professor Sui Lijuang: Lecture Room Series on Cixi, Episode 9]

  13. ^ "光绪皇帝为什么叫慈禧太后亲爸爸? Why does the Guangxu Emperor call the Empress Dowager Cixi as Qin Baba?". Lishi Qiannian. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2010. lưu trữ 15/12/2013

  14. ^ “FRUS: Executive documents printed by order of the House of Representatives. 1874”. Truy cập 1 tháng 10 năm 2015. 

  15. ^ Seagrave, Sterling Dragon Lady: the Life and Legend of the Last Empress of China (Alfred A. Knopf, 1992) pgs. 163 & 164

  16. ^ Edward Behr, The Last Emperor, 1987, p. 49

  17. ^ Kwong, pg. 25

  18. ^ Kwong, pg. 54

  19. ^ Kwong, pg. 61

  20. ^ Kwong, pg. 26-27

  21. ^ Papers Relating to the Foreign Relations of the United States (1893) Denby to Gresham, pgs. 240-241; retrieved August 13th, 2013.

  22. ^ Timothy Richard, Forty-five years in China, Ch. 12.

  23. ^ Seagrave, pg. 404

  24. ^ Seagrave, pg. 404 & 405

  25. ^ 大清宣统政纪卷之七: ○恭上孝钦显皇后尊谥礼成。诏曰。朕维有娀太姒。声诗咏于商周。明德宣仁。史笔徵诸汉宋。莫不导扬骏烈。祗奉鸿称。矧伟业迈乎古今。令闻播乎中外。缅怀德范。同深爱戴之诚。勉尽孝思。爰备追崇之礼。隆名允受。钜典聿彰。钦惟皇祖妣大行太皇太后撰合乾元。道符坤厚。型垂雍肃。普德教于六宫。绩奏隆平。播恩膏于四海。启累洽重熙之运。宏光前裕后之模。秉籙绥猷。一二日几康用敕。垂帘训政。五十年宵旰维勤。用君■羊贤则辅弼得人。明符日月。诛元恶则奸回畏法。威震雷霆。既肃朝纲。遂伸天讨。整戎行而雄扬貔虎。边圉肃清。歼丑类而孽埽豺狼。河山巩固。中原砥定。咸庆中兴。寰海交通。益求上理。农桑并课。本计先筹。道艺兼包。人才广育。慎刑章以恤讼狱。严警政以䁹行㥦口𩎟𧵍闾阎。文德覃敷。阙里肃明禋之典。武功丕振。全营储有备之兵。立圜法而财政以修。兴矿务而利源日辟。订商约则法稽列国。五方之贸易偕来。振工业则制补周官。万物之菁华毕献。舟车所达。胥蒙乐利之休。版籍所登。咸沐涵濡之泽。盖统两朝之谟训。实综六合以经营。乃犹以道贵化裁。法宜通变。宸谟独断。示宪政之颁行。血■乣议佥同。期国会之召集。而且推仁恩以绥藩服。讲信义以睦邻封。整饬纪纲以修吏治。敦崇礼教以正人心。者滟见大业之平成。邦基永奠。秉诒谋之深远。世祚孔长。朕自维幼冲。仰蒙覆育。追思美善。弥切推崇。是用博采君■羊言。详稽彝制。昭告天地宗庙社稷先师。于宣统元年正月二十二日。率诸王贝勒文武君■羊臣。谨奉册宝。恭上皇祖妣太皇太后尊谥曰孝钦慈禧端佑康颐昭豫庄诚寿恭钦献崇熙配天兴圣显皇后。既镂文而纪实。宜锡类以颁恩。所有事宜。开列于后。一岳镇海渎庙宇倾颓者。该地方官奏明修葺。以致诚敬。一内外大小各官。除各以现在品级已得封赠外。著照新衔封赠。一在京满汉文武大小官员。俱各加一级。一在京王公文武官员任内有革职留任及降级罚俸者。咸与开复。又在京官员现在议降议罚者。悉行豁免。一外藩蒙古王公以下台吉以上有罚俸住俸者。咸与开复其现在议罚者。悉行豁免。一满汉孝子顺孙义夫节妇。该管官细加咨访。确具事实奏闻。礼部核定。以凭旌表。一各省道路桥梁闲有损坏者。著地方官查明修理。以利行旅。一各处养济院所有鳏寡孤独。及残疾无告之人。有司留心以时养赡。勿致失所。一现在内外监候质审及干连人等。俱著准其保释。一军流人犯。有本人身故。其妻子情愿回籍者。该管官报明该部。准令各回原籍。于戏。垂万年之显号。庆锡孙曾。翔八表之仁风。泽施臣庶。布告天下。咸使闻知。

  26. ^ Edward Behr, The Last Emperor, 1987, p. 51

  27. ^ “The worst genocides of the 20th and 21st Centuries”. 

  28. ^ Jung Chang, Empress Dowager Cixi, 2013, p. 373

  29. ^ With the Empress Dowager of China by Katharine Carl 1907, current print Kessinger Publishing 2004, ISBN 978-1-4179-1701-3.

  30. ^ Kwong, pg. 29

  31. ^ Kwong, pg. 31 & 32

  32. ^ Kwong, pg. 203

  33. ^ a ă Empress Dowager Cixi: The Concubine Who Ruled China - The Daily Beast

  34. ^ Dragon Lady: The Life and Legend of the Last Empress of China by Sterling Seagrave, Vintage Books, New York, 1992 ISBN 0-679-73369-8.

  35. ^ Lei Chia-sheng, Liwan kuanglan: Wuxu zhengbian xintan 力挽狂瀾:戊戌政變新探 [Containing the furious waves: a new view of the 1898 coup], Taipei: Wanjuan lou 萬卷樓, 2004.

  36. ^ Jaques Gernet, A History of Chinese Civilization (Cambridge: Cambridge University Press, second edition 1982): 604.

  37. ^ Kang Youwei 康有為, Kang Nanhai ziding nianpu 康南海自訂年譜 [Chronicle of Kang Youwei's Life, by Kang Youwei], Taipei: Wenhai chubanshe 文海出版社, p. 67.

  38. ^ Song Bolu, "Zhang Shandong dao jiancha yushi Song Bolu zhe" 掌山東道監察御史宋伯魯摺 [Palace memorial by Song Bolu, Investigating Censor in charge of the Shandong Circuit], in Wuxu bianfa dang'an shiliao, p. 170.「渠(李提摩太)之來也,擬聯合中國、日本、美國及英國為合邦,共選通達時務、曉暢各國掌故者百人,專理四國兵政稅則及一切外交等事。」

  39. ^ British Foreign Office files (F.O.) 17/1718, ngày 26 tháng 9 năm 1898.

  40. ^ Imperial Masquerade: The Legend of Princess Der Ling, by Grant Hayter-Menzies ISBN 978-962-209-881-7, Hong Kong University Press, January 2008

  41. ^ H. R. Trevor-Roper, Hermit of Peking: The Hidden Life of Sir Edmund Backhouse (New York: Knopf, 1977)

  42. ^ Imperial Woman by Pearl S. Buck (1956, Hardcover). ISBN 0381980375 | ISBN 9780381980375.

  43. ^ Representations - Welcome!

  44. ^ From Sun to Mao to now | The Economist





No comments:

Post a Comment